Di tích thành cổ Quảng Trị và trận chiến 81 ngày đêm
Sau khi tỉnh Quảng Trị được giải phóng (1-5-1972), để thực hiện kế hoạch chiếm lại tỉnh Quảng Trị mà trước hết là thị xã Quảng Trị, quân đội Việt Nam Cộng hoà (VNCH) đã tổ chức một cuộc hành quân lấy tên là “Lam Sơn 72”, với dự định trong vòng từ cuối tháng 5-1972 đến giữa tháng 7-1972 sẽ cơ bản chiếm xong huyện Hải Lăng, thị xã Quảng Trị và huyện Triệu Phong. Để thực hiện cuộc hành quân tái chiếm, quân đội VNCH đã huy động 4 sư đoàn thuộc lực lượng tổng dự bị quốc gia với lực lượng tương đương 17 trung đoàn bộ binh, 17 tiểu đoàn pháo binh, 5 thiết đoàn và nhiều đơn vị không quân, pháo hạm của quân đội Mỹ hỗ trợ.
Để ngăn chặn và đánh bại cuộc hành quân này, lực lượng Quân Giải phóng đã huy động Trung đoàn 48, Sư đoàn 320; Sư đoàn 308; 2 tiểu đoàn bộ đội địa phương Quảng Trị; sau đó có thêm Trung đoàn 95, Sư đoàn 325, Tiểu đoàn 8 của trung đoàn 64; lực lượng bộ đội địa phương tỉnh Quảng Trị… cùng các đơn vị xe tăng, pháo cao xạ và lực lượng du kích các xã thuộc 2 huyện Triệu Phong, Hải Lăng.
Cuộc chiến đấu chống phản kích, tái chiếm của lực lượng Quân Giải phóng với quân đội VNCH diễn trong vòng 81 ngày đêm, từ ngày 28-6-1972 đến ngày 16-9-1972, trên một địa bàn rộng lớn bao gồm huyện Hải Lăng, một phần huyện Triệu Phong và trên toàn thị xã Quảng Trị. Bắt đầu từ cuối tháng 7, tại các trận địa chốt thuộc các hướng vào thị xã Quảng Trị, các cuộc giành giật quyết liệt giữa Quân Giải phóng với quân đội VNCH diễn ra vô cùng ác liệt. Đặc biệt là ở các cứ điểm vùng ven, ngoại vi thị xã như: Long Hưng, Tri Bưu, La Vang, Long Quang, Bích La, Ngô Xá… các chiến sĩ Quân Giải phóng đã chiến đấu không mệt mõi trong một hoàn cảnh khó khăn, thiếu thốn và nguy hiểm. Đặc biệt từ đầu tháng 9-1972, chiến sự diễn ra vô cùng ác liệt ở khu vực thị xã Quảng Trị và Thành cổ. Sự ác liệt của bom đạn, sự thương vong từ cả hai phía đã làm cho cuộc chiến đấu bảo vệ thị xã và Thành cổ trở thành một chiến trường điển hình về sự khốc liệt của chiến tranh Việt Nam. Tinh thần chiến đấu ngoan cường và sự hy sinh anh dũng của các chiến sĩ Quân Giải phóng đã dựng nên tượng đài về chủ nghĩa anh hùng cách mạng.
Cuộc chiến đấu chống phản kích tái chiếm bảo vệ thị xã Quảng Trị và Thành cổ trong 81 ngày đêm năm 1972 qua đi đã để lại nhiều địa điểm ghi dấu chứng tích chiến tranh ác liệt; đồng thời thể hiện tinh thần chiến đấu và sự hy sinh anh dũng của các chiến sĩ Quân Giải phóng.
Với những giá trị lịch sử, văn hoá, khoa học tiêu biểu di tích “Thành cổ Quảng Trị và các địa điểm lưu niệm sự kiện 81 ngày đêm năm 1972” được Thủ tướng chính phủ công nhận là di tích quốc gia đặc biệt theo Quyết định số 2383/QĐ-TTg ngày 09/12/2013, gồm 7 địa điểm di tích thành phần:
1. Di tích thành cổ Quảng Trị
Di tích Thành cổ Quảng Trị nằm giữa lòng thị xã Quảng Trị; cách quốc lộ 1A gần 1km về phía đông bắc, cách thành phố Đông Hà – tỉnh lỵ của tỉnh Quảng Trị hiện nay khoảng 14km về phía đông nam và cách thành phố Huế hơn 60km về phía bắc. Địa bàn thị xã Quảng Trị có diện tích không lớn nhưng nằm trên trục giao thông huyết mạch quốc gia, có vị trí địa chính trị quan trọng trong lịch sử dựng nước và giữ nước của dân tộc.
A. Lịch sử xây dựng và diện mạo kiến trúc Thành cổ Quảng Trị
a. Lịch sử xây dựng
Năm 1809, một năm sau khi dinh Quảng Trị trở thành dinh trực lệ Kinh sư (cùng với Quảng Bình, Quảng Nam, Quảng Đức), triều đình nhà Nguyễn nhận thấy vị trí đóng lỵ sở của dinh Quảng Trị tại Ái Tử – Trà Liên không được đắc địa, khó có thể hội đủ các điều kiện để trở thành một trung tâm chính trị, kinh tế, xã hội cho một vùng trực lệ Kinh sư nên vua Gia Long cho chuyển lỵ sở dinh Quảng Trị về xã Thạch Hãn, huyện Hải Lăng. Khu vực được chọn xây dựng Thành Quảng Trị là khu đất cao tại xã Thạch Hãn – Hải Lăng (ngày nay thuộc thị xã Quảng Trị). Từ Thành Quảng Trị có thể đi vào Nam hay ra Bắc bằng đường sông, đường bộ, đường biển đều thuận tiện. Quá trình xây dựng Thành Quảng Trị kéo dài gần 28 năm (1809 – 1837), bắt đầu từ thời Gia Long đến thời Minh Mạng. Lịch sử xây dựng thành Quảng Trị trải qua 3 giai đoạn:
Giai đoạn thứ nhất (1809 – 1832): bao gồm công việc di chuyển lỵ sở, quy hoạch và xây dựng. Theo sách “Đại Nam thực lục”: “Năm Gia Long thứ 8 (1809), dời dinh lỵ Quảng Trị đến xã Thạch Hãn” [1]. Địa điểm được chọn để đặt lỵ sở mới của dinh Quảng Trị nằm giữa hai làng Cổ Vưu (về sau gọi là Trí Bưu) và Thạch Hãn. Thời điểm cụ thể của việc xây dựng dinh lũy được bắt đầu từ trước tháng 3 (ÂL) năm 1809 với lực lượng nhân công tại chỗ và được đặt dưới sự điều hành của quan Lưu thủ dinh Quảng Trị là Nguyễn Cữu An.
Giai đoạn thứ hai (từ năm 1832 – 1837): có thể được coi là thời kỳ củng cố, nâng cấp và mở rộng quy mô dinh lũy. Sau hơn 20 năm tồn tại, tháng 11 năm Nhâm Thìn – Minh Mạng thứ 13 (1832), “vua cho rằng lỵ sở Quảng Trị địa thế rộng mà bằng phẳng, muốn được chỗ trung độ mà hiểm trở để dời tỉnh thành cho mạnh sự phòng thủ ở trong bờ cõi, bèn sắc sai quan tỉnh chọn xem chỗ nào đất hẹp thì tâu lên. Thự Tuần phủ là Nguyễn Tú tâu nói: “Xem khắp trong tỉnh đều không có chỗ đất nào tốt, mà lỵ sở cũ đất cao, nước ngọt, thấy ổn tiện hơn cả”. Vua dụ rằng: “Ta xem địa đồ hạt ngươi cũng không có chỗ nào có hình thế sông núi tiện lợi, vả lại tỉnh ngươi ở gần kinh kỳ, cốt người có tài là hơn cũng đủ làm cái hiểm trở vô hình rồi. Vậy nhân cũ sửa lại cũng không hại gì. Ngươi nên chiếu theo cách thức đồ bản của bộ đưa cho, tùy thế đo đạc nêu lên dự tính nhân công, vật liệu rồi tâu trình” [2] .
Chính vì thế, năm Qúy Tỵ – Minh Mạng thứ 14 (1833), vua lệnh cho quan binh sở tại tiến hành nâng cấp và mở rộng quy mô thành Quảng Trị. Với ý thức coi việc “xây đắp tỉnh thành thực mong bền vững muôn đời” nên Minh Mạng đã “sai thự Tuần phủ Nguyễn Tú thuê dân làm việc. Lại nghĩ việc đắp thành là công trình to lớn, Tú khó mà kiêm làm cả. Vậy đặc cách sai trung quân Tống Phước Lương đi trông coi; cho thự Tả quân Nguyễn Văn Hiếu quyền lãnh ấn triện Trung quân”. Lần này, không rõ thời gian tiến hành trong bao lâu, nhưng quy mô của thành theo “Đại Nam thực lục” thì được mở rộng thêm cả về ba phía. “Mặt trước đắp rộng thêm 33 trượng, mặt tả và mặt hữu đều rộng thêm 16 trượng 5 thước, mặt sau để như cũ” [3].
Như vậy, mặc dù về quy mô, cấu trúc tòa thành không được các tư liệu triều Nguyễn ghi lại nhưng có thể thấy rằng công trình Thành Quảng Trị được đắp dưới thời Gia Long chỉ là một thành đất có hình chữ nhật, kích thước nhỏ hơn nhiều so với lần đắp dưới thời Minh Mạng. Diện mạo cấu trúc của công trình thành Quảng Trị về cơ bản đã được xác lập kể từ sau lần đắp thứ hai. Với việc mở rộng kích thước của mặt trước bằng kích thước được mở rộng về cả hai bên đã làm cho chúng ta có thể hình dung diện mạo của tòa thành từ hình chữ nhật đã được tạo thành hình vuông. Trong lần mở rộng diện tích này, hệ thống hào thành xung quanh mới được đào hoàn chỉnh. Cũng trong năm 1833, chuẩn y lời tâu của quan Tuần phủ Quảng Trị, Minh Mệnh cho khai đào một đường hào dài 48 trượng nối từ góc đông bắc của thành thông với sông Thạch Hãn để thoát nước từ phía hệ thống hào thành vào sông Thạch Hãn [4].
Giai đoạn thứ ba (năm 1837): Đây là thời kỳ hoàn thiện và kiên cố hóa kiến trúc thành lũy cùng với việc xây cất hoàn chỉnh những công trình kiến trúc bên trong nội thành. Mùa xuân năm 1837, vua Minh Mạng chủ trương cho xây thành Quảng Trị bằng gạch.
Để thực hiện việc chỉ đạo xây dựng, triều đình Huế “sai thống chế doanh Tiền phong là Trần Văn Trí đi trông coi làm việc ấy, Ty Bộ Công và Khoa đạo mỗi bên một người, cùng trông coi việc làm”. Đồng thời, vua “chuẩn cho thuê bắt binh dân 4.000 người làm việc, hậu cấp tiền, gạo (binh mỗi tháng 2 quan, dân 4 quan, gạo đều một phương)” [5]. Vua Minh Mạng cũng là người luôn theo dõi tiến trình xây dựng và đã có những thái độ quan tâm đúng mức. Điều này không chỉ thể hiện ở việc vua thân hành ngự giá ra Quảng Trị để xem xét mà còn được cụ thể hóa bằng các chính sách cụ thể đối với dân binh làm việc trong thời gian tiến hành việc xây thành vào năm 1837: “Chuyến này xây đắp thành Quảng Trị, đã chuẩn cho binh lính đi làm ở đấy cấp mỗi tên mỗi tháng 1 quan tiền; dân thuê mướn thời mỗi tên mỗi tháng 3 quan. Nay lại nghĩ, một phen xây dựng, đụng đến sức binh dân cũng là việc bất đắc dĩ. Nay đương giữa hè nắng dữ, những người làm việc thực thấy vất vả. Vậy gia ơn cho phép chiếu cố dân binh hiện tại làm việc là bao nhiêu, cấp thêm cho mỗi tên 1 quan nữa. Lại lính từ khi bắt đầu khởi công đến nay, trừ tên nào lúc đi lúc không, hay làm việc chưa đủ 1 tháng, không cần bàn đến không kể, còn chiếu như vậy mà truy cấp từ đầu, cho đủ số binh lính mỗi tên 1 tháng 2 quan, dân phu mỗi tên 1 tháng 4 quan” [6].
Việc xây đắp thành Quảng Trị lần này được huy động với số nhân công tương đối lớn (4.000 người). Lực lượng này phần lớn là dân binh trong địa hạt. Các loại nguyên vật liệu phục vụ cho việc xây thành như gạch, mật mía, vôi hàu đều được sử dụng chính từ nguồn của địa phương; một số loại khác như đá xây cổng thành thì được triều đình cho vận chuyển từ nơi khác đến. Và mặc dù quy mô không lớn so với nhiều tỉnh thành khác nhưng do được đặt dưới sự chỉ đạo và giám sát của triều đình nên chỉ trong vòng hai tháng thì công việc hoàn tất. Khi việc xong, “từ đổng lý đến binh dân, đều cho ăn yến một thứ, xem tuồng 3 ngày, Phái ty thuộc hai bộ Lễ, Công cùng ty Lý thiện đi đến trong coi việc khoản đãi, lại thưởng kỷ lục và tiền có thứ bậc” [7].
Khối lượng công việc được Minh Mạng cho thực hiện trong lần xây đắp vào năm 1837 có thể nhận thấy về cơ bản là toàn bộ những gì vốn có như diện mạo kiến trúc của thành Quảng Trị trước khi bị bom đạn chiến tranh tàn phá năm 1972. Từ đó về sau hình dạng tòa thành không có gì thay đổi. So với nhiều tòa thành thuộc các trấn, tỉnh trong cả nước được vua Minh Mạng cho xây bằng gạch thì Thành Quảng Trị có thời gian tương đối muộn nhưng tiến trình thực hiện việc kiên cố hóa lại được thi công trong thời gian tương đối ngắn. Một mặt là do quy mô, cấu trúc của tòa thành không lớn, điều kiện thi công tương đối thuận lợi, lại được sự chỉ đạo trực tiếp của triều đình nên đạt hiệu quả cao; nhưng mặt khác, đồ bản thiết kế mà Minh Mạng chuẩn định với việc giản lược những chi tiết phức tạp không cần thiết cũng cho thấy ý đồ coi thành Quảng Trị là công trình phòng vệ quân sự chỉ ở mức thứ yếu so với ý đồ thiết lập một trung tâm hành chính, chính trị.
Từ khi thành được xây xong, các công trình kiến trúc bên trong như: hành cung, cột cờ, các cơ quan thuộc công đường Quảng Trị như Ty Phiên, Ty Niết, nhà Kiểm học, trại lính…. đã được lần lượt xây dựng trên cơ sở mở rộng, nâng cấp và kiên cố hóa những năm sau đó.
Với thời gian tồn tại của mình cho đến hiện nay, thành Quảng Trị có 27 năm được đắp tạm thời bằng đất, 135 năm được tạo dựng kiên cố bằng gạch (kể từ năm 1837 đến trước khi bị tàn phá vào năm 1972) và còn lại là quãng thời gian có cả sự hoang phế lẫn công việc phục hồi, tái thiết mới. Như vậy, việc chuyển trung tâm hành chính, chính trị của tỉnh Quảng Trị về Thạch Hãn và xây dựng bằng gạch kiên cố đã chứng tỏ ngoài những lí do về chiến lược quân sự, nhà Nguyễn đã rất chú ý đến vị trí của Thành Quảng Trị trong việc xây dựng, phát triển kinh tế, văn hóa đối với vùng đất nằm cạnh Kinh đô trong mối tương quan với kinh thành Huế và các tỉnh khác. Quá trình xây dựng của Thành Quảng Trị từ khi khởi công dưới thời Gia Long đến khi hoàn thiện dưới thời Minh Mạng kéo dài trong gần 28 năm (1809 – 1837) với 3 giai đoạn.
b. Diện mạo kiến trúc qua các thời kỳ
Nói diện mạo kiến trúc thành Quảng Trị không chỉ là nói đến quy mô, cấu trúc, kỹ thuật xây dựng của tòa thành mà còn có cả những công trình đã được xây dựng bên trong. Tuy nhiên, với tư cách là một trung tâm hành chính địa phương cấp tỉnh, trải qua gần 150 năm dưới thời quân chủ phong kiến nhà Nguyễn và thời thuộc Pháp (1809 – 1954); hơn 18 năm dưới thời VNCH (1954 – 1972) Thành Quảng Trị (được đổi thành Đinh Công Tráng) do chịu nhiều biến động của hoàn cảnh lịch sử, xã hội nên các công trình kiến trúc đã có nhiều thay đổi về vị trí, chức năng cũng như phong cách kiến trúc.
Bộ phận kiến trúc chính tạo ra diện mạo tổng quát của Thành Quảng Trị là cấu trúc phòng thành. Nội thành là những công trình mang các chức năng khác nhau liên quan đến một trung tâm hành chính, được xây dựng và bố trí theo mô thức chung như nhiều tỉnh thành khác trong cả nước. Vì thế, nếu gọi theo đúng nghĩa thành quách với đầy đủ hai lớp thành là thành trong và thành ngoài hay gọi theo cấu trúc của Kinh thành Huế gồm thành ngoại (tức Kinh thành) và thành nội (Đại nội – tức Hoàng thành và Tử cấm thành) thì Thành Quảng Trị chỉ có thành ngoài mà không có thành trong.
Thành ngoài, tức phòng thành Quảng Trị được xây bằng gạch, tổng thể có hình vuông. Thành được cấu trúc theo kiểu Vauban. Đặc điểm của thành luỹ cấu trúc theo kiểu Vauban là cả một hệ thống phức hợp các công trình kiến trúc liên quan chặt chẽ với nhau và mang tính phòng thủ rất vững chắc. Nhìn toàn cục nó bao gồm các bộ phận chính kể từ trong thành ra bên ngoài như sau: Luỹ, pháo đài, pháo đài góc, đoạn thành nối hai pháo đài, tường bắn, những pháo nhãn hay pháo môn, đường phòng hộ chân thành ngoài, hào thành… phương thức kiến trúc ấy xuất hiện trong điều kiện mà quân đội nhiều nước trên thế giới đã qua khỏi thời đại chiến đấu bằng cung tên và gươm giáo, họ đã được trang bị bằng các vũ khí bắn đạn được đẩy đi bằng thuốc súng [8].
Hệ thống phòng thành với thân thành xây cao và thẳng ở 4 mặt, 4 góc có 4 pháo đài nhô hẵn ra để từ đó có thể kiểm soát được các mặt thành. Ở chính giữa thành của 4 phía mở 4 cửa ra vào (Nam môn – cửa Tiền, Bắc môn – cửa Hậu, Đông môn – cửa Tả, Tây môn – cửa Hữu). Bao quanh là hệ thống hào thành. Dưới chân thành có đường phòng hộ. Trước mỗi cửa thành đều có một chiếc cầu xây vòm cuốn bắc qua hào thành nối bên trong với bên ngoài. Ngoài ra còn có một hào thành nối hệ thống hào thành với sông Thạch Hãn để thoát nước và chống úng khi mùa lũ.
Theo sách “Khâm định Đại Nam Hội điển Sự lệ” thì Thành Quảng Trị có chu vi 489 trượng 6 thước, cao 1 trượng 3 thước, mở 4 cửa, 1 kỳ đài, hào rộng 2 trượng[9]. Theo “Đại Nam nhất Thống chí” thì thành có chu vi là 481 trượng 6 thước, cao 1 trượng linh, bề dày 3 trượng, mở 4 cửa, hào rộng 4 trượng, 6 thước, sâu 8 thước trượng [10]. Còn theo sách “Đồng khánh dư địa chí lược” thì thành có chu vi là 489 trượng, 6 thước, cao 1 trượng, 7 tấc, dày 1 thước, 7 tấc. Thân thành 4 góc, 4 cửa. Hào rộng 8 trượng, 2 thước, sâu 5 thước [11]. Như vậy, kích thước thành Quảng Trị được chép trong các tài liệu của Quốc sử quán triều Nguyễn không thống nhất, thậm chí có sự chênh lệch nhau.
Từ năm 1992 đến nay, trong quá trình nghiên cứu và thực hiện dự án quy hoạch, đầu tư tôn tạo di tích thành Quảng Trị, qua tiến hành nhiều bước khảo sát, đo đạc lại kích thước thành ngoài với sự hỗ trợ đắc lực của các thiết bị kỹ thuật hiện đại và đã có những kết quả như sau: Chiều dài của tường thành phần thẳng tính từ mép ngoài (kể cả kích thước của tổng thành) ở mỗi mặt là 280m, ở 4 mặt là 1.220m. Chiều dài tường thành ở mỗi góc bầu (pháo đài) với 2 hai cạnh ở đỉnh góc, mỗi cạnh 95m, 2 cạnh tiếp giáp với thân thành ở mỗi góc bầu (pháo đài) với 2 cạnh ở đỉnh góc, mỗi cạnh 95m, 2 cạnh tiếp giáp với thân thành, mỗi cạnh 35m, có tổng cộng là 260m và ở cả 4 góc pháo đài là 1.040m. Từ đó, chu vi toàn thành sẽ là 2.160m, tổng diện tích toàn bộ thành Quảng Trị là 18,56 ha.
Án ngữ 4 góc thành là 4 pháo đài nhô hẵn ra phía ngoài, sắp xếp cân đối ở mỗi góc và xếp đối xứng nhau qua các cửa chính diện của chân thành mà dân địa phương quen gọi là “góc bầu”. Mỗi pháo đài có 4 cạnh bố trí theo dạng hình thoi. Hai cạnh của pháo đài nhô ra xếp gần như vuông góc với mặt thành thẳng có chiều dài mỗi cạnh là 35m. Hai cạnh còn lại xếp song song với 2 phía thân thành để tạo ra một góc nhọn của pháo đài có bề dài mỗi cạnh là 95m.
Trên toàn bộ chiều dài của tường thành bằng gạch, ở mặt ngoài, để tạo ra một mặt đứng nghiêng với độ khuynh 1/10, các viên gạch được xây theo kỹ thuật xếp kế tiếp nhau, lớp trên xếp lùi dần từ 2 – 3mm so với lớp dưới để thành những gờ gạch như những đường diềm mỏng chạy quanh thành mà chân người không thể tỳ vào đó để leo lên thành được. Ở mặt trong, tường gạch dựng đứng để làm ốp chắn tường đất dày ở bên trong đến đỉnh thành gạch còn hơn 1m để làm tường bắn. Dọc theo bờ tường, cách đều từng đoạn có chừa những khoảng trống để làm nơi đặt súng gọi là pháo nhãn hay pháo môn. Trên mặt thành đất chừa một khoảng khá rộng để binh lính quan sát, chiến đấu di chuyển trên thành. Dưới chân thành là các hầm chứa vũ khí. Chân choãi rộng, với độ dốc 300 binh sĩ có thể vận động lên xuống dễ dàng ở mặt trong của thành.
Trước mặt mỗi cửa thành, có một chiếc cầu được xây bằng gạch và kè chắn bằng đá vững chắc bắc qua hào thành, nối nội thành với bên ngoài. Bao bọc xung quanh là hệ thống hào thành tương đối rộng, khá sâu (chừng 3m) và luôn chứa đầy ắp nước. Bờ trong của hào thành chạy song song với các cạnh của tường thành, cách chân thành ở mặt ngoài 5m. Bờ ngoài của hào thành thẳng, nhưng ở mỗi mặt thành, hai đường bờ hào kéo từ phía cổng thành về 2 góc pháo đài lại chéo hình chữ V. Vì thế, bề rộng của hào thành ở mỗi mặt có kích thước không giống nhau tại mỗi vị trí. Hệ thống của hào thành được thông ra sông Thạch Hãn bằng một cái hói chạy theo hướng đông – tây, tính từ mép ngoài của hào thành ra đến bờ sông Thạch Hãn thì chiều dài con hói gần 250m, sâu 3,4m.
Nội thành có nhiều công trình kiến trúc được xây dựng nhằm mục đích phục vụ trực tiếp cho việc ở và là việc của các cơ quan công đường thuộc bộ máy hành chính của tỉnh Quảng Trị. Công trình trọng yếu phải kể đến trước hết là Hành cung, nằm cách cửa Tiền chừng 500m. Khu vực này có hình vuông chu vi chừng 400m.
Hành cung là nơi dùng để vui nghỉ ngơi trong những lần ngự giá đi qua địa hạt. Cũng như nhiều Hành cung trong các tỉnh thành khác, Hành cung Quảng Trị là một công trình kiến trúc được xây dựng theo mô thức nhà rường, có 3 gian, 2 chái, mái lợp ngói âm dương, cột sơn son thếp vàng. Bên trong có ngai đặt trên bệ rộng, trên có tán rộng. Hai phía cửa hữu có hai công trình nằm quay mặt về nhà chính. Xung quanh xây bằng tường gạch chỉ để mặt trước 2 cửa ra vào. Có lẽ vì tính quy mô và vị trí trung tâm cùng với hệ thống tường gạch dày, xây cao bao bọc xung quanh nên được gọi là khu vực nội thành. Hành cung chỉ mở khi có vua đến hoặc các dịp làm lễ bái vọng, lễ thăng chức của các cơ quan đầu tỉnh ở Quảng Trị và các dịp tế lễ định kỳ trong năm.
Phía trước mặt Hành cung là Kỳ đài, có nền xây gạch, tạo thành 3 bậc; được dựng ở vị trí chính diện của mặt tiền. Chiếu theo quy định của Minh Mạng vào năm thứ 12 (1831) thì kỳ đài ở Thành Quảng Trị cũng như kỳ đài các trấn thành, “mặt sau rộng 3 trượng 2 thước, bên tả bên hữu đều rộng 2 trượng 7 thước, cột cờ cao 5 trượng 1. Tức là kỳ đài có hình chữ nhật, bề dài 13,5m, bề rộng 11,47m, cột cờ cao 21,25m.
Phía sau khu vực Hành cung là những cơ quan công đường, nơi ở và làm việc của các cơ quan lại thuộc bộ máy hành chính của tỉnh như: Dinh Tuần phủ, Dinh Án sát, Dinh Bố chính, Dinh Lãnh binh, Nhà kiểm học, Trại quân, Nhà bếp, Nhà Kho, Khám đường, Ngục thất. Các công trình kiến trúc này đều được xây dựng theo kích thước nhà công với mô thức thông dụng thời Nguyễn là kiểu nhà rường, có bộ khung chịu lực bằng gỗ, mái lợp ngói liệt, xung quanh xây tường gạch hoặc che chắn bằng ván gỗ.
Những công trình kiến trúc thuộc nội thành Quảng Trị nhìn chung không mang tính bền vững cao và thường xuyên biến động, thay đổi để phù hợp với tính chất, công năng cũng như mục đích sử dụng theo từng thời kỳ. Sự ổn định tương đối về diện mạo kiến trúc nội thành Quảng Trị chỉ giới hạn trong khoảng thời gian từ khi hoàn chỉnh việc xây dựng (1837) đến trước khi người Pháp chính thức đặt chính quyền “bảo hộ” lên toàn bộ tỉnh Quảng Trị.
Sau khi cơ bản bình định được An Nam, người Pháp chọn khu vực xung quanh Thành Quảng Trị để xây dựng thị xã tỉnh lỵ, lấy Thành Quảng Trị làm tâm điểm của một trung tâm hành chính, chính trị thì một số công trình trong khu vực thành được người Pháp xây mới, làm theo diện mạo kiến trúc nội thành có sự thay đổi. Căn cứ vào bản sơ đồ về Thành Quảng Trị do Nguyễn Thứ vẽ năm 1889 [12], có thể biết được đến những năm cuối thế kỷ XIX, nội thành Quảng Trị ngoài những công trình được xây dựng dưới thời Nguyễn còn lại như: Hành cung, Dinh tuần phủ, Dinh án sát, Dinh Lãnh binh… vẫn do bộ máy quan lại của Quảng Trị thuộc triều đình An Nam sử dụng đã có thêm các công trình khác do người Pháp xây dựng như: đồn cảnh sát, nhà tù, nơi chỉ huy các binh chủng, cửa hàng lương thực, bưu điện, trạm xá, cửa hiệu, lò mổ gia súc, tiệm mì… Đến đầu thế kỷ XX, một loạt các công trình mới bên trong thành được chính quyền “bảo hộ” Pháp cho thiết lập thêm để phục vụ cho bộ máy cai trị; trong đó, điểm hình là công trình lao hầm bên trong khu nhà giam cũ, các kho vũ khí, nơi ở và nơi làm việc của các cơ quan chức quân sự, các sĩ quan, văn phòng chỉ huy trưởng, trại lính trinh sát, kho quân trang, xưởng may, xưởng đóng giày và sửa chữa vũ khí, kho gạo…
Dưới chế độ VNCH (1954 đến 1971), thành Quảng Trị được gọi là thành Đinh Công Tráng và đã có sự thay đổi cả về diện mạo lẫn chức năng. Trải qua các biến động xã hội trong năm 1945 và 9 năm chống Pháp, các công trình kiến trúc (xây dựng dưới thời nhà Nguyễn) ở bên trong hầu như đã bị chiến tranh và thiên tai tàn phá gần hết. Vì thế, chính quyền Sài Gòn đã biến nơi đây thành doanh trại quân đội, khu nhà ở cho binh lính (thuộc lực lượng địa phương quân của Sư đoàn I) cùng với sân vận động và nhà lao. Ở góc đông nam thành, bên cạnh việc tận dụng lại những nhà lao kiên cố được xây dựng từ thời Pháp, chính quyền miền Nam cho mở rộng thêm một số nhà tạm, phòng giam để giam giữ tù nhân. Đồng thời, trên cơ sở một số nền nhà cũ, những căn nhà với kết cấu cột, vì kèo sắt, mái lợp tôn đã được dựng lên để dùng làm nơi ở cho binh lính. Số quân đồn trú thường trực tại đây luôn có khoảng 2 đại đội (100 – 120 người) làm nhiệm vụ bảo vệ thị xã, tiếp viện và điều động cho các khu vực xung quanh khi cần thiết. Ngoài ra, để bảo vệ các sở bên trong, chính quyền Sài Gòn còn dựng các lô cốt ở những vị trí thích hợp trong và ngoài thành để canh gác. Trong thành Quảng Trị, ngoài các công trình phục vụ cho mục đích quân sự và bộ máy nhà nước của chính quyền tay sai còn có một số nhà dân.
Như vậy, diện mạo kiến trúc thành Quảng Trị là một tòa thành kiểu Vauban, chỉ có hệ thống phòng thành với tường thành xây gạch ở mặt ngoài và đắp đất ở mặt trong, 4 góc là 4 pháo đài, 4 mặt có 4 cửa cùng với một số công trình kiến trúc ở nội thành được xây dựng nhằm vào mục đích phục vụ cho bộ máy cai trị của tỉnh Quảng Trị qua các thời kỳ. Nếu như hệ thống phòng thành Quảng Trị kể từ khi hoàn thiện đến trước khi bị bom đạn phá hoại (1972) là có tính bền vững, ổn định cao, thì các công trình kiến trúc được xây dựng ở nội thành luôn thay đổi tùy theo tính chất, công năng và mục đích sử dụng theo từng thời kỳ lịch sử. Nếu như cấu trúc hệ thống phòng thành nặng về ý nghĩa của một công trình quân sự thực hiện việc phòng thủ trong bờ cõi theo ý đồ của người tạo lập thì các công trình kiến trúc nội thành thiên về diện mạo của một trung tâm hành chính. Có thể có nhiều cách tiếp cận khác nhau nhưng có thể nói rằng, thành Quảng Trị là một trung tâm chính trị, hành chính đúng nghĩa của tỉnh Quảng Trị.
B. Cuộc chiến đấu chống phản kích, tái chiếm bảo vệ Thành cổ 81 ngày đêm năm 1972
a. Vị trí chiến lược của Thành cổ Quảng Trị
Dưới chế độ VNCH, thị xã Quảng Trị là một vùng nhỏ hẹp nằm giữa vùng nông thôn trù phú ở bờ Nam sông Thạch Hãn, có phố xá đông đúc và sầm uất. Có 3 đường chính đến thị xã: Quốc lộ 1A, đường 68 từ Thừa Thiên Huế ra và đường 64 từ Cửa Việt lên. Thị xã Quảng Trị là trung tâm tỉnh lỵ tỉnh Quảng Trị, nơi tập trung tất cả các cơ quan đầu não của chính quyền VNCH. Giữa lòng thị xã có tòa Thành cổ Quảng Trị, một kiến trúc thành luỹ được xây dựng vào thế kỷ XIX, dưới triều Nguyễn. Đây là nơi đóng các cơ quan đầu não về quân sự gọi là Tiểu ban quân sự Quảng Trị.
Với cuộc tiến công nổi dậy năm 1972 từ ngày 30-3 đến 1-5-1972, Quân Giải phóng đã tiêu diệt và phá hủy các tập đoàn phòng ngự, cụm cứ điểm mạnh từ Gio Linh, Cam Lộ, Đông Hà, Ái Tử, thị xã Quảng Trị, giải phóng tỉnh Quảng Trị. Quyết không thể để mất Quảng Trị, một tỉnh địa đầu giới tuyến miền Nam giáp miền Bắc XHCN, trong khi Hội nghị Paris lập lại hòa bình ở Việt Nam đang đến cần một giải pháp chính trị. Không cam chịu thất bại, Mỹ vội ra lệnh “Mỹ hóa” trở lại cuộc chiến tranh ở miền Nam, đưa các sư đoàn mạnh thuộc lực lượng tổng dự bị quốc gia trong đó có 2 sư đoàn thiện chiến đó là sư dù và thủy quân lục chiến cùng với xe tăng, máy bay, pháo hạm… chi viện tối đa, mở cuộc hành quân mang mật danh “Lam sơn 72” với âm mưu chiếm thị xã và các huyện Nam sông Thạch Hãn trước ngày 10-7; sau đó vượt sông Thạch Hãn đánh chiếm các huyện phía bắc.
Như vậy, xuất phát từ vị thế của một trung tâm hành chính, chính trị của một tỉnh nên khi cuộc chiến chống phản kích tái chiếm diễn ra, Thành cổ và thị xã Quảng Trị trở thành điểm mấu chốt để cả hai bên đặt cược vào trong một ván bài mang tính chính trị và ngoại giao hơn là quân sự. Phía Mỹ và chính quyền VNCH thì tập trung tái chiến bằng được vùng đất đã mất, trong đó mục tiêu chính là thị xã và Thành cổ Quảng Trị. Về phía Quân Giải phóng, để bảo vệ thành quả đã giành được, bảo vệ tỉnh địa đầu miền Nam mới được giải phóng nên phải tập trung lực lượng để quyết tâm giữa bằng được thị xã và Thành cổ, đánh tan cuộc phản kích. Tất cả đều hướng đến mục tiêu là tạo ra những điều kiện thuận lợi nhất cho mình trên bàn đàm phán của Hội nghị Paris.
b. Chủ trương của Bộ quốc phòng và Quân đội nhân dân Việt Nam
Ngay khi quân đội VNCH lập phòng tuyến ngăn chặn hướng tiến công của Quân Giải phóng vào Thừa Thiên và bắt đầu mở cuộc phản kích tái chiếm, đêm 28-6-1972, Thường vụ Đảng uỷ và Bộ Tư lệnh chiến dịch họp đánh giá kết quả đợt tiến công thứ 3 và nhận thấy đợt tiến công này không thành công, sức tiến công yếu, lại giảm sút nhanh chóng. Về phía quân đội VNCH thiệt hại không đáng kể nên có thể dùng 1 đến 2 trung đoàn ngăn chặn Quân Giải phóng ở hướng đường 1 và nhân lúc hậu phương chiến dịch của Quân Giải phóng sơ hở mở cuộc tiến công chiếm lại.
Từ kết luận đó, Thường vụ Đảng uỷ và Bộ tư lệnh chủ trương: Tiếp tục tiến công hiện nay có trọng điểm, có hiệu lực, đồng thời khẩn trương triển khai các lực lượng bộ đội chủ lực, bộ đội địa phương và dân quân du kích, các đơn vị binh khí kỹ thuật để đánh bại cuộc hành quân của địch, chặn bằng được các cánh quân tiến công của chúng ở Trường Phước và Hải Lăng. Cụ thể: dùng một bộ phận lực lượng giữ vững các khu vực bàn đạp quan trọng ở Quảng Trị; đồng thời thực hành tiến công nhỏ và vừa tiêu hao một số bộ phận sinh lực địch, đánh mạnh vào hậu phương, kho tàng, sân bay và bắn máy bay địch, làm chúng rối loạn, sẵn sàng đánh địch đổ bộ đường không, đường biển để giữ vững vùng giải phóng [13].
Sau khi quán triệt quyết tâm của Quân uỷ Trung ương “chỉ có một khả năng giữ vững Quảng Trị, đánh bại cuộc hành quân của địch”, và nêu bật ý nghĩa chính trị, quân sự, ngoại giao của cuộc chiến đấu mới, Nghị quyết chỉ rõ: Quân VNCH đánh ra Quảng Trị (mục tiêu chủ yếu là thị xã và Thành cổ) nhằm phá cuộc tiến công của Quân Giải phóng, giữ Thừa Thiên Huế – một mặt trận mà quân VNCH coi là then chốt trên chiến trường miền Nam hiện nay, chiếm lại một khu vực đất đai và một số dân quan trọng mà Quân Giải phóng đã chiếm được trong thời gian qua để củng cố tinh thần quân VNCH và phục vụ âm mưu chính trị, ngoại giao của Mỹ. Đây là một trong những cố gắng cuối cùng để cứu vãn chính sách “Việt Nam hoá chiến tranh” của Mỹ, cứu vãn uy tín của Tổng thống Ních-xơn, phục vụ cho cuộc tranh cử tổng thống. Mưu đồ của quân VNCH rất lớn nên đã cố gắng tới mức cao nhất, tập trung lực lượng không quân, hải quân và lực lượng quân đội VNCH vào cuộc hành quân “tái chiếm” này [14].
Ngay sau khi Mỹ và chính quyền VNCH mở cuộc hành quân “tái chiếm”, đi đôi với việc chỉ đạo các cánh quân phản công, Thường vụ Quân ủy Trung ương đã chỉ đạo phương hướng chuyển dần vào tác chiến phòng ngự. Đối với thị xã và Thành cổ Quảng Trị, Đại tướng Võ Nguyên Giáp – Bộ trưởng Bộ Quốc phòng chỉ thị rất cụ thể về bố trí trận địa, binh lực, hỏa lực, xe tăng và tổ chức trận địa phòng không và pháo binh ở tả ngạn sông Thạch Hãn, đề phòng những tình huống có thể xảy ra [15].
Chỉ đạo chiến dịch có Bộ Chỉ huy chiến dịch do Thiếu tướng Lê Trọng Tấn – Phó Tham mưu trưởng Tư lệnh chiến dịch Trị – Thiên. Trung đoàn 48 chịu trách nhiệm chỉ huy chung các lực lượng trong thị xã Quảng Trị, Sở chỉ huy đặt ở Bích Khê, sau chuyển về An Mô, trong thành có sở chỉ huy nhẹ. Ngày 14-7, Bộ Tư lệnh chiến dịch quyết định thành lập Ban Cán sự Đảng và Ban Chỉ huy bảo vệ Thành cổ Quảng Trị gồm: Tham mưu phó Bộ Tham mưu chiến dịch làm Chỉ huy trưởng, Cục phó Cục Chính trị chiến dịch làm Chính ủy. Các chỉ huy Trung đoàn bộ binh 48, Phó tỉnh đội trưởng, Chủ tịch Ủy ban quân quản Quảng Trị làm Chỉ huy phó. Cơ quan của Trung đoàn 48 làm cơ quan của Ban Chỉ huy, lấy Sở Chỉ huy cơ bản của Trung đoàn 48 làm Sở Chỉ huy của Ban Chỉ huy bảo vệ Thành cổ.
c. Diễn biến và kết quả
Từ ngày 28-6 đến 3-7-1972, Mỹ và quân lực VNCH đã điều 4 sư đoàn bộ binh, 3 thiết đoàn xe tăng thiết giáp được hoả lực phi pháo chi viện tối đa đã ồ ạt đánh chiếm một số vùng rộng lớn từ Gia Đẳng, Linh Chiểu, Hải Lăng, điểm cao 28, 105B, Nam sông Nhùng, Nam Long Hưng, La Vang, áp sát thị xã và Thành cổ Quảng Trị. Trong khi đó, Quân Giải phóng đang từ thế tiến công phải điều chỉnh gấp đội hình trong điều kiện cơ động hết sức khó khăn bị phi pháo (kể cả máy bay chiến lược B52) đánh phá quyết liệt, lực lượng chuẩn bị bố phòng cho vùng mới giải phóng chưa đầy đủ, nên đã bị thiệt hại tương đối nặng (thế trận bị động, mất đất, mất dân). Trung đoàn 48, mặc dù được giao nhiệm vụ bố trí lực lượng chốt giữ Thành cổ và thị xã Quảng Trị nhưng đến ngày 6-7-1972, Trung đoàn mới tập trung và triển khai được lực lượng. Nhưng với quyết tâm sẵn sàng chiến đấu bảo vệ Thành cổ và thị xã Quảng Trị, bộ đội chủ lực, bộ đội địa phương cùng quân và dân Quảng Trị chiến đấu kiên cường đẩy lùi các đợt tiến công của quân VNCH.
Sau hơn 10 ngày mở cuộc phản kích tái chiếm, Mỹ và chính quyền VNCH quyết tâm cắm cờ lên tòa Thành cổ vào ngày 13-7, tức trước khi có cuộc gặp giữa phái đoàn VNDCH và Mỹ ở Hội nghị Paris sau nhiều tháng bị gián đoạn. Để thực hiện mục tiêu đó, quân VNCH đẩy nhanh tiến công vào các trận địa chốt của Quân Giải phóng ở vùng ven thị xã như Tri Bưu ở hướng đông bắc Thành cổ. Trên hướng đông nam tại chốt Ngã ba Long Hưng, Quân Giải phóng đã đẩy lùi được các đợt tiến công của quân dù nhưng trên hướng đông bắc quân VNCH đã chiếm được làng Tri Bưu, uy hiếp trực tiếp Thành cổ. Không bỏ lỡ thời cơ, Tướng Ngô Quang Trưởng ra lệnh cho quân dù: “Bằng cách gì, đêm nay cũng phải cắm được cờ trong Thành cổ” [16]. Việc cắm cờ lên Thành cổ Quảng Trị trước giờ khai mạc Hội nghị Pari đã trở thành mục tiêu thôi thúc quân Mỹ và quân VNCH. Cũng từ đây nhiệm vụ phòng giữ thị xã và Thành cổ của quân giải phóng trở nên quyết liệt.
Xác định âm mưu của đối phương, tối 12-7, Thiếu tướng Lê Trọng Tấn, Tư lệnh chiến dịch, ra lệnh cho Trung đoàn bộ binh 48: “Đêm nay phải cố thủ giữ vững Thành cổ Quảng Trị, không được để một tên địch lọt vào”. Tiếp đó, điện số 915 của Quân ủy Trung ương: “Các đồng chí phải giữ Thành cổ bằng bất cứ giá nào” [17]. Đúng như kế hoạch, tối 12-7, một bộ phận quân Dù đã theo cống ngầm vào Thành cổ để cắm cờ nhưng đã bị Quân Giải phóng chặn đánh. Không thực hiện được mục tiêu, quân dù đã lệnh cho các hướng phải tiếp tục tấn công cùng với pháo bắn phá dữ dội, sử dụng bom khoan có sức công phá lớn để phá hủy các bức tường thành, hầm ngầm, công sự của Quân Giải phóng để thực hiện ý định cắm cờ lên Thành cổ, nâng tổng số đạn pháo đánh phá khu vực Thành cổ Quảng Trị trung bình mỗi ngày 8.000 viên lên 15.000 viên. Cao điểm có ngày, quân VNCH bắn tới hơn 30.000 viên; sử dụng mỗi ngày từ 40-60 lần máy bay phản lực và phun chất độc hóa học, vừa thả bom khoan, bom hơi để phá tường thành, đánh sập hầm hào công sự của quân giải phóng; tăng số phi vụ B52 đánh phá mỗi ngày từ 30-40 lần chiếc lên 60-70 lần chiếc để chặn tiếp tế vào Thành cổ và đánh sâu vào hậu phương [18].
Với sức công phá lớn của bom, pháo đã gây nhiều thiệt hại cho Quân Giải phóng đang chiến đấu tại Thành cổ và thị xã Quảng Trị. Trước tình đó, Bộ tư lệnh chiến dịch tăng cường Tiểu đoàn bộ binh 4 của Trung đoàn 95 và Tiểu đoàn bộ binh 9 của Trung đoàn 64 vào thị xã cùng phối hợp với Trung đoàn 48.
Về phía quân VNCH, sau thất bại đợt 1 tấn công vào Thành cổ, 14 giờ ngày 14-7, sau khi được tăng lực lượng, quân dù cho một tốp biệt kích bí mật luồn theo những chỗ tường thành bị bom đạn phá vỡ, lẻn vào Thành cổ cắm cờ ở phía đông bắc nhưng đã bị các chiến sĩ Đại đội 14 hỏa lực của Trung đoàn 48 và các chốt của Tiểu đoàn bộ binh 3 địa phương Quảng Trị phát hiện, nổ súng tiêu diệt một số tên, số còn lại bỏ chạy.
Âm mưu tiến công ồ ạt vào thị xã và cắm cờ lên tòa Thành cổ trong đầu tháng 7 đã không thực hiện được, quân đội VNCH đã tăng cường mở các cuộc tấn công trên tất cả các hướng đẩy lùi thời gian cắm cờ đến ngày 18, rồi 27-7 nhưng các cuộc tấn công đó đã bị Quân Giải phóng chặn đứng, bị thiệt hại nặng. Để đánh lừa dư luận, tối 25-7, đài phát thanh Sài Gòn phát một bài tường thuật: Quân dù mũ nồi đỏ đang tràn vào chiếm được Thành Quảng Trị, họ đang chuẩn bị ngày mai long trọng làm lễ kéo cờ trong Thành cổ. Tiếp đó, 9 giờ ngày 26-7, quân VNCH tổ chức cắm cờ có cố vấn Mỹ, phóng viên báo chí để quay phim nhưng không phải ở Thành cổ mà là tại bức tường thành đổ của đình làng Trâm Lý (thuộc xã Hải Quy), cách thị xã 3km về phía đông. Tuy nhiên, trò lừa bịp này ngay từ đầu đã bị lực lượng trinh sát của Quân Giải phóng phát hiện nên đã huy động pháo binh bắn vào vị trí tổ chức làm quân VNCH hoảng loạn, vội vã lên máy bay trực thăng bỏ chạy.
Như vậy, sau 1 tháng mở cuộc tiến công, quân dù đã không thực hiện được kế hoạch mà ngược lại còn bị thiệt hại nặng. Bản tin của hãng AFP ngày 27-7-1972 đưa tin: “Trong cuộc hành quân tái chiếm Quảng Trị quân Dù Nam Việt Nam đã bị đánh quỵ. Trong những ngày chiến đấu đẫm máu tại đây, mỗi ngày họ chết 150 người, các cố vấn Mỹ cho rằng thật chẳng đáng để bám lấy cái thị xã Quảng Trị nguy hiểm ấy làm gì, lính Dù đã bị thương vong quá nặng, họ cần có thời gian để tổ chức và hồi phục lại” [19]… Ngày 27-7, tướng Ngô Quang Trưởng, Tư lệnh Quân khu 1 hạ lệnh đưa các lực lượng quân dù ra củng cố, giao nhiệm vụ cho Sư đoàn Thủy quân Lục chiến đảm nhiệm tiếp tục tấn công vào thị xã Quảng Trị.
Thủy quân lục chiến vào thay quân dù, nhanh chống đẩy mạnh chuyển hướng tấn công từ tiến công ồ ạt sang “lấn dũi” với cách đánh dùng hỏa lực đánh mạnh trước, dùng xung lực lấn dũi từng bước, củng cố chắc bàn đạp chiếm được, làm hầm kiên cố, đưa xe tăng vào chi viện cho bộ binh. Để thực hiện nhanh mục tiêu, Sư đoàn trưởng Sư đoàn Thủy quân lục chiến hạ lệnh cho Lữ đoàn 258 cùng sự hỗ trợ của Chiến đoàn 4 (gồm 1 trung đoàn bộ binh và 1 trung đoàn xe tăng, thiết giáp) phòng giữ phía sau, tấn công vào thị xã Quảng Trị từ 3 hướng: đông bắc (Tri Bưu, Hành Hoa), tây nam phối hợp với quân dù (La Vang, Tích Tường, Như Lệ, Cầu sắt, Đệ Ngũ, Bồ Đề), hướng bắc (An Tiêm, Nại Cửu, chợ Sãi) tạo thành ba gọng kìm tấn công vào thị xã và Thành cổ.
Lợi dụng cơn mưa bão đầu mùa vào cuối tháng 7, đầu tháng 8 gây khó khăn cho Quân Giải phóng, quân VNCH đã tiến vào được thị xã Quảng Trị và kế hoạch là đêm 7-8 sẽ tổ chức chào cờ tại Thành cổ nhưng đã bị Quân Giải phóng đánh chặn trên tất cả các hướng. Những địa điểm chốt quan trọng bao quanh Thành cổ như Bồ Đề, Đệ Ngũ, Tri Bưu, Hành Hoa… cả hai bên giành giật nhau và đang ở thế giằng co. Kết quả, quân VNCH đã không thực hiện được kế hoạch.
Giữa tháng 8, quân VNCH phải dàn trải lực lượng ra cánh đông và ven biển. Hơn nữa, sau những đòn thất bại tại thị xã, tinh thần quân lính bị giảm sút cần phải có thời gian để củng cố. Mặt khác, sự thôi thúc theo yêu cầu ngoại giao ở Hội nghị Paris không còn như hồi tháng 7. Do vậy, thời gian này chiến trường thị xã không diễn ra trận chiến nào lớn chỉ có những trận tập kích nhỏ nhưng với tinh thần “còn người còn trận địa”, dựa vào thế lực liên hoàn, từng chốt yểm trợ cho nhau, tích cực tập kích, phản kích nhỏ, ban ngày bị mất chốt thì ban đêm tổ chức tập kích chiếm lại. Chính vì vậy, Thành cổ và các con đường dẫn vào thành vẫn được giữ vững. Cuộc chiến bảo vệ Thành cổ thực sự ác liệt và tàn khốc nhất diễn ra từ cuối tháng 8 đến đầu tháng 9.
Thời gian này, về phía Quân Giải phóng bố trí lực lượng xung quanh Thành cổ gồm có: hướng bắc có Tiểu đoàn 9 Trung đoàn 64, Tiểu đoàn bộ binh 2 của Trung đoàn 48, Đại đội bộ binh 45 của tiểu đoàn địa phương Quảng Bình. Hướng đông bắc Tri Bưu có Tiểu đoàn 6 bộ binh của Trung đoàn 95, Tiểu đoàn 1 của Trung đoàn 48. Hướng đông nam có Tiểu đoàn bộ binh 4 của Trung đoàn 95. hướng nam có Tiểu đoàn 8 địa phương Quảng Trị. Trong Thành cổ có Tiểu đoàn 3 địa phương Quảng Trị. Ngoài ra còn có đại đội hỏa lực của Trung đoàn 95, 1 phân đội chống tăng B72 của Sư đoàn 325, 1 đại đội công binh.
Về phía quân VNCH bố trí tại thị xã như sau: Tiểu đoàn 6 bố trí khu vực đông nam Thành cổ; Tiểu đoàn 2 bố trí từ ngã ba Long Hưng đến Đệ Ngũ Đông; Tiểu đoàn 1 từ ngã tư đường sắt đến Đệ Ngũ Tây; Tiểu đoàn 3 ở làng Tri Bưu, Hành Hoa, Đông bắc Thành cổ; Tiểu đoàn 8 làm lực lượng dự bị.
Đặc biệt từ cuối tháng 8 đến đầu tháng 9-1972, Quảng Trị gặp cơn mưa bão gây mưa lũ lớn, dài ngày, nước sông Thạch Hãn dâng cao tràn vào thị xã, làm ngập úng, sụt lỡ các trận địa, hầm hào của quân giải phóng, mưa lớn và dài ngày nên đạn dược, lương thực, thực phẩm bị ướt, đời sống sinh hoạt khó khăn, sức khỏe bộ đội giảm sút. Lợi dụng dụng tình hình đó, quân VNCH liên tục “lấn dũi” vào chiếm các trận địa của Quân Giải phóng, chiếm được các địa điểm chốt ở Bồ Đề, Đệ Ngũ, khống chế bến vượt – tuyến chi viện duy nhất cho thị xã bằng đường sông Thạch Hãn. Quân Giải phóng tổ chức nhiều đợt tấn công nhưng không phá được thế vòng vây. Đặc biệt, trong các trận đánh ngày 9 và ngày 10-9, Lữ đoàn 258 Thủy quân lục chiến tập trung cả 3 tiểu đoàn bộ binh, có xe tăng yểm trợ tiến công từ các hướng nam, đông nam và tây nam Thành cổ. Các lực lượng chốt của Quân Giải phóng đã đánh trả quyết liệt, hai bên giành giật nhau từng căn nhà, góc phố, nhất là các khu vực ở chùa Bà Năm, Ty cảnh sát, Thánh đường Thạch Hãn… ở hướng nam. Sau đợt tấn công này, cả hai phía đều có những thiệt hại nặng nhưng về phía quân VNCH vẫn chiếm ưu thế về binh, hỏa lực. Tiểu đoàn 4 của Trung đoàn 95 cũng bị thiệt hại lớn, trên 50 người hi sinh và bị thương nặng, cả Tiểu đoàn chỉ còn 7 người, đến tối 10-9, Tiểu đoàn 4 được lệnh rút ra củng cố. Trên hướng đông bắc, Tiểu đoàn 2 của Trung đoàn 48 kiên quyết ngăn chặn và phản kích địch, nhưng 1 trung đội Thủy quân Lục chiến đã lọt vào Thành cổ. Không để cho địch phát triển, Ban Chỉ huy bảo vệ Thành cổ lệnh cho Tiểu đoàn 3 bộ đội địa phương Quảng Trị lập tức phản kích, quân địch buộc phải tháo chạy ra khỏi thành. Nhiều trận chiến ác liệt diễn ra ngay dưới chân Thành cổ. Trên các hướng đông bắc, đông nam, nam đã được nối liền nên quân VNCH có điều kiện để hiệp đồng, chi viện cho nhau tiến công đồng loạt từ 3 hướng, gây cho Quân Giải phóng rất nhiều khó khăn, nhất là thiếu lực lượng cơ động để cùng các chốt phản kích, đơn vị nào cũng phải lo giữ chốt, không có lực lượng dự bị do tuyến chi viện duy nhất bằng đường sông gặp nhiều khó khăn vì nước sông Thạch Hãn dâng cao và bị pháo binh, thủy lôi phong tỏa.
Ngày 11-9, quân VNCH tiếp tục tiến công trên tất cả các hướng vào Thành cổ. Trên hướng đông nam, 6 giờ sáng đã có một bộ phận địch lọt vào thành, Tiểu đoàn 3 bộ đội địa phương Quảng Trị xuất kích đánh bật chúng ra ngoài. Đến 12 giờ, đại đội địch tập trung nhảy vào thành, Tiểu đoàn 3 tiếp tục đánh đánh trả quyết liệt và liên tục phản kích, chúng bị thiệt hại nặng phải dùng hỏa lực chi viện và lui khỏi thành trước khi trời tối.
Mặc dù chiến đấu rất kiên cường nhưng trước sức ép của hỏa lực và bộ binh tấn công tập trung của quân lực VNCH, các chiến sĩ Quân Giải phóng buộc phải bỏ các địa điểm chốt bao quanh Thành cổ lui về giữ Thành. Với thế phòng thủ trong điều kiện nhiều bất lợi: Lực lượng bị tiêu hao nhiều, tình hình bị bao vây từ các phía, thời tiết mưa lũ, trong nội thành các công trình đã bị bom, pháo phá hủy, tường thành tuy cao và dày nhưng cũng đã bị đổ nát, không còn vật liệu để làm hầm hào, công sự, vũ khí đạn dược còn ít, chi viện rất khó khăn… nhưng các chiến sĩ quân giải phóng vẫn quyết tâm bám trụ giữ vững Thành cổ Quảng Trị chiến đấu đến hơi thở cuối cùng, đẩy lùi được nhiều đợt tấn công của quân VNCH.
Ngày 15-9, các Lữ đoàn 258 và 147 Thủy quân Lục chiến tổ chức tiến công từ 3 hướng vào Thành cổ với sự chi viện trực tiếp của tất cả các loại hỏa lực pháo, cối, xe tăng, súng phun lửa… mở đợt tổng đột phá vào 2 góc thành đông nam và đông bắc và cổng thành phía nam. Đến 4 giờ ngày 15-9, một đại đội lính VNCH bí mật tập kích vào Sở Chỉ huy Tiểu đoàn 1 của Trung đoàn 48, chiếm góc đông bắc Thành cổ và từ hướng đông nam, tây nam áp sát vào chiếm góc thành phía nam. Trong suốt ngày 15-9, hai bên chiến đấu quyết liệt tại các góc tường thành. Tối 15-9, các lực lượng Quân Giải phóng phải lui sâu vào thành, quân VNCH đã kiểm soát được cổng thành phía nam, đưa 4 đại đội và 5 xe tăng vào củng cố các khu vực đã chiếm được từ góc đông bắc đến góc đông nam. Trong khi đó, về phía Quân Giải phóng, quân số hy sinh ngày càng nhiều, có ngày lên đến hơn 100 người, hỏa lực chi viện cho lực lượng chiến đấu ở thị xã cũng giảm dần, các đường tiếp tế qua sông đều bị quân VNCH chặn đánh, quân số chiến đấu mỗi đại đội chỉ còn 5-7 người, có những đại đội chỉ còn 3 người, tiểu đoàn còn 19 người, vũ khí không đủ chiến đấu, thông tin liên lạc bị gián đoạn. Theo kế hoạch tối 15-9, Trung đoàn 18 và đại đội xe tăng sẽ vào nhận nhiệm vụ hợp đồng nhưng vẫn chưa nhận được thông tin. Trước tình hình đó, 1 giờ ngày 16-9, Ban Chỉ huy quyết định cho các lực lượng còn lại tại Thành cổ và thị xã Quảng Trị rút về tả ngạn sông Thạch Hãn để bảo toàn lực lượng và triển khai bảo vệ vùng giải phóng. Đến 2 giờ ngày 16-9, đội hình còn lại của Quân Giải phóng cơ bản đã qua sông, kết thúc 81 ngày đêm chiến đấu kiên cường và hy sinh anh dũng.
Trong 81 ngày đêm chiến đấu chống phản kích tái chiếm, Thành cổ Quảng Trị với chu vi hơn 2.160m đã trở thành “túi bom” của quân lực VNCH với các loại phương tiện chiến tranh, vũ khí hiện đại nhằm chiếm cho bằng được Thành cổ vì đây là địa bàn chiến lược, có thể tạo sức nặng “mặc cả” với ta tại Hội nghị Paris. Không thể thống kê được số bom đạn dội xuống mảnh đất này. Các nhà khoa học quân sự ước tính trung bình mỗi chiến sĩ Quân Giải phóng ở đây phải chịu trên 100 quả bom và 200 quả đạn pháo. Người ta ghi nhận được đêm 4-7-1972, pháo đài B52 Mỹ đã ném 4.000 tấn bom; ngày 31-7-1972, khoảng hai vạn quả đại bác cỡ lớn từ 105mm đến 203mm đã nã xuống khu vực thị xã Quảng Trị; ngày 25-7-1972, địch điên cuồng xả vào Thành cổ khoảng 5.000 quả đại bác [20].
Hàng ngày, tại Thành cổ như có mưa bom, mưa đạn pháo, địa thế lúc nào cũng rung chuyển như đang có động đất. Với một khối lượng lớn bom đạn ném xuống Thành cổ làm cho bốn dãy tường thành thành dày đến 12m cứ vỡ dần vì bom đạn và chấn động của mặt đất. Máu xương của các anh hùng liệt sĩ đã hòa vào lòng đất Thành cổ. Thế nhưng bom đạn đã không làm nao núng ý chí quyết tử với Thành cổ của những chiến sĩ quân giải phóng, hầu hết đều rất trẻ, tuổi mới mười chín, đôi mươi, là những tân binh, nhiều người trong số họ là học sinh, sinh viên các trường học miền Bắc tăng cường cho chiến trường. Các anh đã anh dũng bám trụ từng tấc đất của Thành cổ. Có ngày, các chiến sĩ Quân Giải phóng đã phải đánh phản kích từ 5-7 lần, có khi 13 lần. Cuộc chiến đấu ở đây diễn ra như một huyền thoại và cách đánh cũng vượt ra những quy ước thông thường với những tấm gương quả cảm. Nhiều chiến sĩ như Phan Văn Ba bị pháo làm nát một bàn tay vẫn xin ở lại chiến đấu; chiến sĩ Hán Duy Long dùng Trung liên kẹp nách truy kích diệt 58 tên địch, ba lần bị thương vẫn giữ vững trận địa… Ở đây khi giao chiến, Quân Giải phóng phải để lựu đạn xì khói trên tay mới ném, phải trèo lên tường cao ném xuống hoặc bò vào sát miệng hầm địch mà liệng…
Kiểm soát Thành cổ Quảng Trị là mục tiêu của cả hai phía như là một nổ lực to lớn – nơi biểu dương sức mạnh của mỗi bên nhằm phục vụ cho cuộc đấu tranh chính trị và ngoại giao đang đi đến một thời điểm quyết định [21].
Sau 81 ngày đêm chiến đấu oanh liệt, đánh phản kích tại Thành cổ và thị xã Quảng Trị, Quan Giải phóng và nhân dân Quảng Trị đã vượt qua mọi khó khăn, bền bỉ chiến đấu, phát huy cao độ chủ nghĩa anh hùng cách mạng, gan góc, táo bạo, dũng cảm, mưu trí. Chiến công ở Thành cổ Quảng Trị đi vào lịch sử đấu tranh cách mạng của dân tộc Việt Nam những trang hào hùng đầy máu và lửa. Nghĩ đến Thành cổ, chúng ta nghĩ đến mảnh đất rực lửa chiến công và sự hy sinh cao quý của đồng bào và chiến sĩ cả nước trong 81 ngày đêm “cảm tử cho Tổ quốc quyết sinh”.
C. Qúa trình trùng tu, tôn tạo di tích Thành cổ Quảng Trị
Do phải gánh chịu một khối lượng bom đạn khổng lồ trong cuộc chiến chống phản kích tái chiếm bảo vệ Thành cổ và thị xã Quảng Trị 81 ngày đêm năm 1972 nên từ sau ngày đất nước giải phóng, Thành cổ Quảng Trị hầu như bị phá huỷ hoàn toàn, chỉ còn lại hình dạng hệ thống tường thành với một số đoạn tường xây gạch loang lỗ vết đạn, còn 2 cổng Tiền, Hậu chưa sụp đỗ. Bên trong thành, tất cả các công trình đều bị san phẳng thành bình địa. Toàn bộ diện tích của thành loang lỗ những hố bom, hố pháo và tiềm tàng vô số các loại bom mìn chưa nổ đe doạ cuộc sống của người dân. Nhăm 1986, Thành cổ Quảng Trị được công nhận di tích quốc gia, nhưng do điều kiện kinh tế còn khó khăn, đơn vị hành chính tỉnh chưa ổn định nên chưa có một đầu tư nào cho di tích. Thành cổ Quảng Trị vẫn ở trong tình trạng hoang phế, hệ thống hào thành bao quanh khu vực bị sụt lỡ, lòng hồ bị lấp cạn, cây cỏ hoang dại mọc um tùm. Một công trình duy nhất trong thành là lao xá cũng đã hư hại nặng nề. Di tích Thành cổ Quảng Trị bị xuống cấp nghiêm trọng, một địa danh ghi dấu một thời kỳ oanh liệt của dân tộc Việt Nam trong cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước dần dần trở thành một vùng đất hoang phế.
Trước tình hình xuống cấp nghiêm trọng của di tích, đầu năm 1992 Sở Văn hoá và Thông tin Quảng Trị đã phối hợp với Viện thiết kế qui hoạch đô thị và nông thôn hoàn thành bản dự án “Tôn tạo khu di tích lịch sử Cách mạng Thành Cổ Quảng Trị” và được Bộ Văn hoá – Thông tin đầu tư kinh phí thực hiện trùng tu tôn tạo di tích. Từ năm 1992 đến nay Thành cổ Quảng Trị đã được trùng tu tôn tạo chia làm hai giai đoạn.
Giai đoạn 1: Tôn tạo khu di tích lịch sử cách mạng Thành cổ Quảng Trị với các công trình hoàn thành và đưa vào sử dụng: Đài tưởng niệm trung tâm; nhà bảo tàng; cổng Tiền và cầu bắc qua hào thành trước cổng Tiền; hệ thống hào nước xung quanh thành được nạo vét và kè bằng đá học; hệ thống đường chính và đường nội bộ; hệ thống cây cảnh, cây bóng mát; hệ thống điện nước, hạ tầng. Các công trình được bảo tồn: di tích cổng Hậu, vết tích cổng Tả, Hữu, Lao xá, vết tích tường thành, hố bom… với tổng mức vốn đầu tư giai đoạn 1 là hơn 12 tỷ đồng.
Giai đoạn 2 với các hạng mục công trình đã hoàn thành: Phát lộ hệ thống tường thành; xây dựng hệ kênh mương dẫn nước từ mương thuỷ lợi đến hồ Thành cổ; nạo vét, vệ sinh mặt hồ thả hoa sen; xây dựng hệ thống lan can quanh hào thành; xây dựng lại 3 chiếc cầu bắc qua hào thành ở 3 cổng; bổ sung hệ thống chiếu sáng sân vườn trong và ngoài thành; xây dựng và các tạo hệ thống đường bao quanh thành với tổng kinh phí hơn 41 tỷ đồng. Hiện tại đang tiến hành nâng cấp Đài tưởng niệm trung tâm với tổng kinh phí 32,423 tỷ đồng.
Được sự quan tâm đầu tư của các cấp và chính quyền địa, hiện nay di tích Thành cổ Quảng Trị đã có nhiều thay đổi bên cạnh bảo tồn những yếu tố gốc còn lại sau chiến tranh, dự án còn trùng tu và xây dựng mới nhiều công trình tri ân tưởng niệm đáp ứng nhu cầu viếng thăm của hàng chục vạn lượt khách tham quan trong và ngoài nước mỗi năm.
Hiện trạng di tích Thành cổ được cấu thành bởi hai nhóm công trình:
1. Các dấu tích mang yếu tố gốc được bảo tồn, trùng tu, phục hồi:
– Hệ thống cổng thành
– Hệ thống tường thành
– Hệ thống pháo đài
– Hệ thống cầu bắc qua hào thành
– Hệ thống hào thành
– Lao xá
– Chứng tích hố bom
2. Các công trình tôn tạo:
– Đài tưởng niệm trung tâm
– Nhà trưng bày
– Bia chiến tích sinh viên
Dự án trùng tu tôn tạo vừa bảo tồn những yếu tố gốc của di tích phần nào vẫn giữ được nguyên diện mạo Thành Quảng Trị đã góp phần quan trọng trong việc nghiên cứu Thành Quảng Trị nói riêng và hệ thống thành lũy dưới thời Nguyễn nói chung; bảo tồn yếu tố gốc cùng với sự đổ nát và loang lỗ của những vết nứt, vết bom đạn nhằm minh chứng cho cuộc chiến tàn khốc và sự phá hủy của bom đạn qua đó giúp khách tham quan hiểu hơn về sự chiến đấu và hy sinh anh dũng của các chiến sĩ Quân Giải phóng trong 81 ngày đêm chiến đấu bảo vệ thị xã và Thành cổ Quảng Trị.
Xác định bảo tồn yếu tố gốc là công việc quan trọng của di tích, do vậy trong những năm qua cơ quan quản lý di tích đã và đang chú trọng. Về phía đơn vị trực tiếp quản lý đã thường xuyên tiến hành làm vệ sinh, phát quang cỏ dại và những loại cây leo… nhằm hạn chế tối đa sự xâm thực làm phá hủy hệ thống tường thành và các công trình bảo tồn. Tuy nhiên, đây chỉ là những biện pháp tạm thời, về lâu dài để bảo tồn được những yếu tố gốc còn lại tại di tích Thành cổ đặc biệt là hệ thống tường thành đã trải qua thời gian, chịu tác động của bom đạn làm sụt lún, nứt vỡ cùng với sự ảnh hưởng của thời tiết nhất là mùa mưa lũ sẽ tác động rất lớn đến công trình. Do vậy, cần nghiên cứu tìm ra những phương án tối ưu cho quá trình bảo tồn.
Các công trình xây dựng mới trong đó hai công trình trọng tâm là Đài tưởng niệm trung tâm và nhà trưng bày là điểm nhấn của toàn bộ di tích Thành cổ. Đài tưởng niệm trung tâm được xây dựng dựa trên ý tưởng về triết lý âm – dương, quan niệm về nhân sinh quan, vũ trụ quan; về mối quan hệ giữa người sống và người chết… đã để lại những ấn tượng sâu sắc cho khách tham quan đến với di tích Thành cổ. Đài tưởng niệm trung tâm từ một công trình mới xây dựng nhưng trở thành biểu tượng thiêng/cõi thiêng trong không gian thiêng Thành cổ. Cùng với Đài tưởng niệm trung tâm, nhà trưng bày Thành cổ với hơn 115 ảnh tư liệu, 155 hiện vật, 21 khoa học phụ nhằm giới thiệu rõ hơn về những vấn đề liên quan đến di tích bao gồm quá trình xây dựng Thành; chiến dịch giải phóng Quảng Trị; cuộc chiến chống phản kích tái chiếm bảo vệ thị xã và Thành cổ 81 ngày đêm năm 1972; công tác tri ân sau ngày đất nước giải phóng… Từ khi nhà trưng bày đưa vào sử dụng, khai thác cho đến nay đã phần nào đáp ứng nhu cầu tìm hiểu về di tích. Trong thời gian sử dụng, đơn vị quản lý đã quan tâm tiến hành chỉnh lý, bổ sung nhiều hiện vật quan trọng, đặc biệt là hiện vật di vật liệt sĩ tiêu biểu như bức thư của liệt sĩ Lê Văn Huỳnh và di vật của liệt sĩ Lê Binh Chủng đã để lại nhiều xúc động và ấn tượng cho khách tham quan.
Ngoài ra, các công trình trùng tu tôn tạo khác như: Nhà đón tiếp, nhà dịch vụ, hệ thống lan can, kè hào thành; hệ thống cầu bắc qua hào thành; hệ thống đường nội bộ; hệ thống cây xanh, cây bóng mát; hệ thống điện chiếu sáng; bãi đỗ xe… đã đưa vào sử dụng, khai thác đáp ứng nhu cầu đón khách tham quan.
Với những kết quả đạt được trong quá trình trùng tu tôn tạo di tích Thành cổ Quảng Trị đến nay về cơ bản các công trình đã phát huy tính hiệu quả trong việc giới thiệu, học tập, tham quan, suy ngẫm và là nơi tôn vinh, tưởng niệm các anh hùng liệt sĩ với những chiến công bất tử; đồng thời là nơi giáo dục truyền thống Cách mạng cho các thế hệ hôm nay và mai sau. Hiện nay, hàng năm tại di tích Thành cổ đã đón tiếp hàng chục vạn lượt khách trong nước và quốc tế đến tham quan, tưởng niệm. Thành Cổ Quảng Trị trở thành một cõi thiêng trong không gian thiêng của sự kiện 81 ngày đêm, nơi hành hương tưởng niệm trong các tour DMZ, “Du lịch hoài niệm về chiến trường xưa và đồng đội”.
Di tích Thành Cổ Quảng Trị là một trong 07 di tích thành phần thuộc di tích “Thành cổ Quảng Trị và những địa điểm lưu niệm sự kiện 81 ngày đêm năm 1972” được Thủ tướng xếp hạng di tích quốc gia đặc biệt theo quyết định số 2383QĐ-TTg ngày 09/12/2013.
2. Di tích ngã ba Long Hưng và nhà thờ Long Hưng
Di tích Ngã ba Long Hưng và nhà thờ Long Hưng nằm bên trục quốc lộ 1A, thuộc địa phận làng Long Hưng, xã Hải Phú, huyện Hải Lăng, cách thành phố Đông Hà – trung tâm tỉnh lỵ Quảng Trị chừng 15km về hướng nam, cách trung tâm huyện chừng 7 km về hướng bắc, cách Thành cổ Quảng Trị 2 km về hướng đông nam.
Ngã ba và nhà thờ Long Hưng là những trận địa chốt của lực lượng chủ lực Quân Giải phóng trong cuộc chiến đấu chống phản kích tái chiếm, bảo vệ thị xã Quảng Trị 81 ngày đêm năm 1972.
Ngay sau khi Mỹ và chính quyền Sài Gòn mở cuộc phản kích tái chiếm Thành cổ và thị xã Quảng Trị theo hai hướng chính thì trên hướng chủ yếu theo Quốc lộ 1 (Sư đoàn dù (gồm 3 lữ đoàn), tăng cường 2 thiết đoàn cơ giới, 1 tiểu đoàn pháo 155mm) thì chỉ sau một thời gian ngắn từ 28-6 đến 3-7-1972, lực lượng quân VNCH đã nhanh chóng đánh chiếm lại các vùng giải phóng rộng lớn tại Bắc sông Mỹ Chánh, Thượng Xá, Nam sông Nhùng và các điểm cao 28, 105 (hướng Tây) tạo nên thế bao vây tấn công vào thị xã Quảng Trị.
Xác định Ngã ba và nhà thờ Long Hưng nằm trên hướng tấn công chủ yếu của quân lực VNCH nên ngay sau khi mở cuộc phản kích, ngày 30-6-1972, Phó tổng tham mưu trưởng, Tư lệnh Mặt trận Trị – Thiên – Thiếu tướng Lê Trọng Tấn giao nhiệm vụ: “Trung đoàn 48 cùng với tỉnh đội Quảng Trị tổ chức phòng thủ khu vực La Vang, Tích Tường, Ngã ba Long Hưng, nhà ga Quảng Trị, Trí Bưu dùng chướng ngại vật kết hợp với hỏa lực tổ chức chiến đấu chặt chẽ, kiên quyết không cho địch lọt vào thị xã. Ban chỉ huy Trung đoàn phải trược tiếp tổ chức, đôn đốc, kiểm tra mọi mặt việc xây dựng các trận địa trong khu vực phòng thủ đảm bảo khẩn trương và chiến đấu có hiệu quả cao nhất” [1].
Về không gian diễn ra cuộc chiến trên trận địa chốt Ngã ba Long Hưng kéo dài từ ngã ba đi nhà thờ La Vang cách cầu Nhùng khoảng 1km về phía bắc, cách thị xã Quảng Trị khoảng 2 km về hướng đông nam, thuộc địa phận làng Long Hưng, xã Hải Phú, huyện Hải Lăng đến phía nam cầu Trắng. Trên không gian này có hệ thống kênh mương tưới tiêu nhỏ đan xen đi qua khu vực ngã ba thuận tiện cho Quân Giải phóng khi tổ chức bố phòng, có nhà thờ Long Hưng nằm ngay bên trục quốc lộ 1A là những công trình được xây dựng kiên cố, có gác chuông cao thuận lợi cho dùng làm nơi trú ẩn, làm công sự chiến đấu cũng như đài quan sát xung quanh khu vực. Ngoài ra, còn có các tuyến đường nối quốc lộ 1A đi La Vang, Tích Tường, Như Lệ… Đây cũng chính là hướng có điều kiện thuận lợi để triển khai binh hoả lực lớn trên Quốc lộ 1.
Với vị trí rất quan trọng án ngữ trên trục quốc lộ và trên trục đường đi vào thị xã và Thành cổ mà cả hai phía luôn quyết tâm đánh chiếm; nếu bên nào làm chủ được địa điểm này sẽ làm chủ được hướng tiến công vào thị xã từ hướng nam và đông nam.
Về phía quân lực VNCH, ngay sau khi mở cuộc phản kích tái chiếm Thành cổ và thị xã Quảng Trị, lấy hướng đường số 1 làm hướng tấn công chủ yếu và do Lữ đoàn 2 dù đảm nhiệm có xe tăng, máy bay B52, pháo binh hỗ trợ chi viện. Thực hiện âm mưu tiến công ồ ạt nhằm “đánh nhanh thắng nhanh” tiến thẳng vào Thành cổ và thị xã Quảng Trị, chỉ đạo chung của Quân dù ở đường số 1 và cánh phía tây do Tư lệnh Lê Quang Lưỡng, Lữ đoàn dù 2 là Lữ đoàn đầu tiên của quân lực VNCH được Trung tướng Ngô Quang Trưởng – Tổng Tư lệnh Quân đoàn 1 chiến thuật giao nhiệm vụ cắm cờ lên toà Thành cổ Quảng Trị.
Về phía Quân Giải phóng, thực hiện chủ trương của Tư lệnh Mặt trận, tại trận địa chốt Ngã ba Long Hưng giao cho Trung đoàn 48, Sư 320B chỉ huy và bố trí lực lượng. Từ 3 – 10-7-1972, Đại đội 11, Tiểu đoàn 3, Trung đoàn 48 được giao nhiệm vụ chốt giữ phía nam ngã ba (phía đông La Vang), cách cầu Nhùng 1km về phía bắc, làm nhiệm vụ đánh địch từ xa. Từ ngày 28-6 đến cuối tháng 7-1972, Đại đội 5, Tiểu đoàn 2, Trung đoàn 48, Sư 320B vào thay.
Trong thời gian dài giữ chốt từ đầu tháng 7 đến kết thúc cuộc chiến 81 ngày đêm năm 1972, trên địa bàn Ngã ba Long Hưng đã diễn ra nhiều trận chiến đấu trong đó có những trận tiêu biểu như: Trận đánh mở màn ngày 3-7-1972, trận đánh quyết liệt nhất vào ngày 12-7-1972.
Ngày 28-6-1972, cuộc hành quân phản công tái chiếm lấy mật danh “Lam Sơn 72” bắt đầu thì chỉ sau một thời gian ngắn, đến ngày 3-7-1972 cánh Quân dù của tiểu đoàn 11, Lữ đoàn 2 trên đường số 1 thuộc hướng tiến công chính đã đến Thượng Xá, Nam sông Nhùng. Tại đây, Quân dù nhanh chóng củng cố thế đứng chân. Đến 6h ngày 3-7, Quân dù vượt cầu Nhùng tiến công vào phía nam ngã ba Long Hưng (đoạn giáp đường sắt, phía Đông nam La Vang) do 1 trung đội của Đại đội 11, Tiểu đoàn 3 chốt giữ. Sau hơn 1 giờ dùng máy bay và pháo bắn vào trận địa chốt của Quân Giải phóng, đại đội đi đầu của quân VNCH có xe tăng chi viện, xông lên chốt. Các chiến sĩ Quân Giải phóng vượt qua bom đạn ác liệt, kiên trì chờ quân VNCH tiến vào thật gần mới đồng loạt nổ súng. Bị tấn công bất ngờ nên đã có 43 quân VNCH bị diệt ngay trước trận địa. 8h cùng ngày, Quân dù buộc phải rút lui. Sau thất bại, quân VNCH lùi ra xa, dùng hoả lực bắn phá liên tục vào trận địa, chuẩn bị cho đợt tấn công mới. 14h quân VNCH tiếp tục tiến công. Sau các đợt tấn công, Quân dù không chiếm được chốt của Đại đội 11, mà còn bị thiệt hại nặng. Đến 18h chúng phải rút lui ra xa, dùng hoả lực, phi pháo đánh vào trận địa. Trước sức mạnh của hoả lực quân VNCH, Quân Giải phóng bị thiệt hại nặng, thương vong 12 người, hết đạn sau một ngày liên tục chiến đấu; hơn nữa do địch bắn phá ác liệt kéo dài nên lực lượng còn lại phải rút về phía sau. Đây là trận đánh đầu tiên của lực lượng bảo vệ thị xã.
Sau thất bại trận đầu tiên đánh vào phía nam Ngã ba Long Hưng, quân VNCH đã chuyển hướng mở các cuộc tấn công vào những điểm Quân Giải phóng chưa bố trí được lực lượng chốt giữ như Đại Nại, An Thái và đã nhanh chóng lấy được khu vực này làm uy hiếp thị xã ở hướng đông nam. Trước tình hình đó, ngày 6-7-1972, Trung đoàn 48 điều Đại đội 5, Tiểu đoàn 2 xuống chốt chặn Ngã ba Long Hưng. Ngay sau khi nhận nhiệm vụ, Đại đội 5 đã tập trung xây dựng lại trận địa chốt, bố trí lực lượng, chuẩn bị mọi công tác cho tác chiến lâu dài.
Sau hơn 10 ngày tác chiến, quân lực VNCH dồn hết sức tiến công nhưng cuộc hành quân “Lam sơn 72” vẫn không đạt kết quả mong muốn; trong khi đó, thời gian hội đàm Paris đang đến gần. Trước tình hình đó, Mỹ và chính quyền VNCH đã chỉ thị cho cấp dưới bằng mọi giá phải cắm cờ lên toà Thành cổ trước ngày 13-7-1972.
Thực hiện chỉ đạo cấp trên, sáng 10-7, quân VNCH tập trung một lực lượng lớn gồm bộ binh và xe tăng ở các khu vực làng Đại Nại, An Thái trên đường số 1 nhằm tiến nhanh đến thị xã Quảng Trị.
Về phía Quân Giải phóng, Ban Chỉ huy yêu cầu các trận địa pháo của chiến dịch cùng hoả lực của các đơn vị phòng ngự chuẩn bị mọi lực lượng đánh lại các đợt tiến công. Chốt ngã ba Long Hưng lúc này do Đại đội 5, Tiểu đoàn 2 chốt giữ nằm trên tuyến hành quân quan trọng của quân VNCH. Ngày 10-7, nắm lấy thời cơ pháo Quân Giải phóng bắn, quân VNCH đang rối loạn, Đại đội 5, Tiểu đoàn 2 đã tiến hành xuất kích đẩy lực lượng quân VNCH ra khỏi Long Hưng, tạo thế bố trí chốt giữ vững chắc ở một ngã ba quan trọng trên .
Sau đợt tập kích ngày 10-7, phán đoán tình hình quân VNCH sẽ tăng cường lực lương và phi pháo tiếp tục mở cuộc tiến công trên các hướng để vào thị xã, Quân Giải phóng tranh thủ thời gian củng cố lực lượng, sửa sang lại hầm hào trận địa chốt. Theo kế hoạch ngày 12-7-1972 (trước ngày họp bàn tại hội nghị Pari), chính quyền VNCH tập trung binh hoả lực với mật độ cao nhất để thực hiện âm mưu “tái chiếm thị xã Quảng Trị”. Trên tuyến quốc lộ 1A phía đông nam thị xã Quảng Trị, Lữ đoàn dù 2 kết hợp xe tăng tổ chức tiến công vào La Vang, Long Hưng. Trước khi Quân dù tiến công, hàng loạt máy bay B52, pháo từ Đại Nại (khu vực giáp Long Hưng đã bị quân đội VNCH chiếm lại), pháo từ hạm đội ngoài khơi bắn vào tới tấp đã là cho một số hầm hào của quân giải phóng sạt lỡ, chiến sĩ bị thương… Sau đợt máy bay rải thảm, pháo dọn đường, sáng ngày 12-7-1972, khoảng một trung đội lính VNCH có xe tăng tiến vào chốt ngã ba Long Hưng. Lúc này, Đại đội 5 của Quân Giải phóng chỉ còn 30 tay súng chốt giữ. Cuộc chiến đấu diễn ra quyết liệt. Kết quả sau một ngày chiến đấu, Đại đội 5 đã đẩy lùi các đợt tấn công của quân VNCH, giữ vững trận địa chốt ngã ba Long Hưng, ngăn chặn âm mưu tái chiếm Thành cổ và thị xã Quảng Trị trong thời gian ngắn.
Sau khi được giao nhiệm vụ tiến nhanh theo quốc lộ 1A vào cắm cờ lên toà Thành cổ, Lữ đoàn dù của quân lực VNCH không thể thành công khi chưa qua được chốt ngã ba Long Hưng của Quân Giải phóng. Chính vì vậy, những ngày tháng tiếp theo trên chốt ngã ba Long Hưng tiếp tục diễn ra nhiều trận chiến ác liệt giữa hai bên.
Từ cuối tháng 7, sau nhiều đợt tấn công vào Ngã ba Long Hưng của Sư đoàn dù không thành, đến ngày 27-7-1972, Tướng Ngô Quang Trưởng phải rút Sư đoàn dù ra củng cố và đưa Sư đoàn Thuỷ quân lục chiến vào tiếp tục thực hiện nhiệm vụ. Sau khi vào thay Quân dù, Thuỷ quân lục chiến tập trung lực lượng quân, phương tiện tấn công lên La Vang, Tích Tường, Như Lệ, đánh xuống đường sắt, đường số 1, qua Long Hưng, nhà ga,… bao vây thị xã Quảng Trị ở hướng tây nam. Cũng trong thời gian này, Tiểu đoàn 2, Trung đoàn 48 rút lui về chiến đấu tại Tri Bưu và góc đông bắc Thành cổ, toàn bộ cánh phía nam và tây nam giao cho Trung đoàn 88, Sư đoàn 308 đảm nhận. Tiểu đoàn 88 tổ chức lực lượng mở nhiều đợt tấn công sự “lấn dũi” của Lính thuỷ đánh bộ vào Long Hưng, tiếp tục bảo vệ Thành cổ và thị xã Quảng Trị ở sườn nam và tây nam. Tuy nhiên, thời gian này, trên các trận địa chốt không còn diễn ra những trận đánh quyết liệt vì hội đàm Paris đang tạm dừng và hơn nữa cả hai phía cũng chịu nhiều thiệt hại cần củng cố.
Đến cuối tháng 8, đầu tháng 9, lợi dụng thời tiết đầu mùa mưa bão, nước các sông dâng cao làm ngập toàn bộ thị xã gây nhiều khó khăn cho Quân Giải phóng, quân VNCH đã đẩy mạnh hoạt động phi pháo vào các trận địa chốt của Quân Giải phóng và nhanh chóng vào được nhiều khu vực trong thị xã, buộc Quân Giải phóng phải rút lực lượng vào phòng thủ tại thị xã và Thành cổ. Đến đây, các trận địa chốt vòng ngoài như ngã ba và nhà thờ Long Hưng đã không còn giữ vai trò quan trọng.
Như vậy, sau gần 2 tháng bám trụ, những chiến sĩ chốt giữ trận địa ngã ba Long Hưng mặc dù phải đương đầu với đội quân VNCH có hỏa lực mạnh, lại phải chiến đấu trong một điều kiện hết sức khó khăn, thiếu thốn nhưng các chiến sĩ quân giải phóng vẫn không một phút ngơi nghỉ, kiên quyết không cho một tên địch lọt vào thị xã. Trong thời gian chiến đấu, các chiến sĩ trên chốt Ngã ba Long Hưng đã thực sự trở thành “lũy thép” kiên cường trên một ngã ba được mệnh danh là “Ngã ba bom”, “Ngã ba lửa”. Ở đây họ đã nêu những tấm gương cảm tử cho Thành cổ Quảng Trị, cho sự nghiệp bảo vệ độc lập dân tộc.
Ngã ba và nhà thờ Long Hưng cùng với những trận địa chốt khác trong cuộc chống phản kích bảo vệ Thành cổ 81 ngày đêm đã đi vào lòng người dân Quảng Trị niềm kính phục và tự hào về những chiến công bất diệt.
Để ghi dấu chiến công và tưởng nhớ các chiến sỹ đã hy sinh bảo vệ trận địa chốt ngã ba Long Hưng, Sư đoàn 320B đã cùng với ngành VHTT Quảng Trị đã xây dựng đài chiến thắng.
Nhà thờ Long Hưng hiện nay không còn sinh hoạt tích ngưỡng. Toàn bị khung hình với những bức tường loang lỗ dấu vết bom đạn đang được bảo tồn làm chứng tích chiến tranh.
Di tích ngã ba và nhà thờ Long Hưng là một trong 07 di tích thành phần thuộc di tích “Thành cổ Quảng Trị và những địa điểm lưu niệm sự kiện 81 ngày đêm năm 1972” được Thủ tướng xếp hạng di tích quốc gia đặc biệt theo quyết định số 2383QĐ-TTg ngày 09/12/2013.
3. Di tích nhà thờ Tri Bưu
Di tích Nhà thờ Tri Bưu nằm bên trục đường Trần Bình Trọng, thuộc địa phận phường II, thị xã Quảng Trị, cách thành phố Đông Hà – trung tâm tỉnh lỵ Quảng Trị chừng 17km về hướng đông nam, cách UBND thị xã khoảng 1 km, cách Thành cổ khoảng 500m về hướng đông bắc.
Di tích nguyên là một nhà thờ của giáo dân làng Tri Bưu theo đạo Thiên chúa, được xây dựng vào khoảng thế kỷ thứ XVII. Trong phong trào Văn Thân (sau năm 1885) nhà thờ Tri Bưu bị một nhóm cánh tả đốt phá, có rất nhiều giáo dân (trong đó có 1 vị Linh mục) đã bị giết hại. Năm 1953, bằng sự đóng góp công sức tiền bạc của các giáo dân thuộc giáo xứ Tri Bưu, nhà thờ đã được dựng lại tương đối kiên cố để làm nơi sinh hoạt tín ngưỡng. Trong cuộc tiến công Tết Mậu thân năm 1968, nhà thờ Tri Bưu đã bị hư hại nặng nề. Năm 1971, một lần nữa bà con giáo dân lại đóng góp công sức và tiền của để tu sửa lại nhà thờ đàng hoàng và to đẹp, gồm một khu Thánh đường gồm 11 gian, mỗi gian có diện tích 30m2, tường được xây bằng gạch, các dầm, trụ, vài và đòn tay đở phần mái được đổ bằng bêtông cốt thép chịu lực. Phía trước của nhà thờ có hai gác chuông được xây bằng gạch có đỉnh vươn cao lên khoảng không, ở ngay chính giữa nơi tiếp giáp của tam giác đầu hồi gắn cây thánh giá (biểu tượng của đạo Thiên chúa). Bên trong thánh đường là 2 dãy hành lang rộng 2m,chạy suốt chiều dài của thánh đường.
Trong chiến dịch chống phản kích, tái chiếm Thành cổ và thị xã Quảng Trị năm 1972, Nhà thờ Tri Bưu là một trong những vị trí chốt giữ ở hướng đông bắc Thành cổ nhằm ngăn chặn bước tiến công của quân đội Việt Nam Cộng hoà vào thị xã Quảng Trị. Tại đây, các chiến sĩ Quân Giải phóng đã bám sát trận địa, dựa vào địa hình, địa vật kiên cường chiến đấu đánh trả nhiều đợt phản công của quân VNCH.
Ngay sau khi quân VNCH mở cuộc phản kích tái chiếm Thành cổ và thị xã, xác định âm mưu và các hướng tấn công chính của quân lực VNCH, ngày 3-7-1972, Ban Chỉ huy bảo vệ Thành cổ đã bố trí Tiểu đoàn bộ binh 1, Trung đoàn 48 với quân số 250 người bố trí phía đông thị xã, chốt giữ khu vực Tri Bưu, Quy Thiện chặn đánh ở hướng đường 68 ở hướng đông bắc thị xã. Đến ngày 13-7-1972, Tiểu đoàn 2, Trung đoàn 48 vào thay Tiểu đoàn 1. Từ ngày 27-7-1972, tăng cường thêm Tiểu đoàn 9, Trung đoàn 64, Sư 320B.
Về phía quân lực VNCH, ngay sau khi mở cuộc hành quân tái chiếm, hướng tiến công có hai mũi bằng đường bộ (hướng chính) và đường thủy. Trên hướng chính, chỉ sau hơn 10 ngày tiến công (từ 28-6 đến 10-7), Quân dù đã nhanh chóng vào đến các khu vực ngã ba Long Hưng ở hướng đông nam thị xã, Đại Nại, Quy Thiện chuẩn bị vào Tri Bưu, uy hiếp đông bắc thị xã. Trong tháng 7, trên hướng Tri Bưu do Tiểu đoàn 5, Lữ đoàn dù 2 đảm nhiệm. Từ 28-7 đến 3-8-1972, do Tiểu đoàn 3, Lữ đoàn 258 Thủy quân Lục chiến đảm nhiệm. Từ 4-8 đến 6-9-1972, do Tiểu đoàn 2, Lữ đoàn 258 Thủy quân lục chiến đảm nhiệm. Từ 7-9 đến 15-9-1972, do Tiểu đoàn 7, Lữ đoàn 147 Thủy quân lục chiến đảm nhiệm.
Từ tháng 7, Quân Giải phóng tiến hành tập trung xây dựng chốt Tri Bưu, ngăn chặn các bước tiến công của quân lực VNCH nhằm bảo vệ Thành cổ từ hướng đông bắc. Trên địa điểm chốt Tri Bưu kéo dài từ làng Tri Bưu qua đường 68 đến xóm Hành Hoa đã diễn ra nhiều trận chiến đấu ác liệt một bên quyết tâm đánh chiếm, một bên quyết giữ đã tạo ra một thế trận giằng co, có khi quân VNCH chiếm thì Quân Giải phóng phản kích để chiếm lại, kiên quyết giữ vững trận địa chốt, bảo vệ phía đông bắc Thành cổ. Từ đầu tháng 8, về phía Quân Giải phóng luôn chiếm ưu thế, giành nhiều thắng lợi. Tiêu biểu nhất là trận đánh ngày 4-5/8/1972, Tiểu đoàn 2, Trung đoàn 48 được tặng thưởng Huân chương chiến công hạng nhất.
Đến đầu tháng 9, tỉnh Quảng Trị bị cơn bão lớn đổ bộ gây mưa lũ dài ngày làm cho toàn bộ thị xã ngập úng, các trận địa sụt lỡ, đạn dược, lương thực, thực phẩm bị ướt, đời sống sinh hoạt của bộ đội gặp nhiều khó khăn. Lợi dụng tình hình này, quân VNCH tập trung bom đạn đánh phá và cho binh lính, xe tăng vào các vùng đất cao xung quanh thị xã để đánh liên tục đánh vào các trận địa chốt của Quân Giải phóng. Đến ngày 12-9, về phía Quân Giải phóng gặp rất nhiều khó khăn, lực lượng bị tiêu hao nhanh, không có lực lượng dự bị do việc tiếp tế qua sông Thạch Hãn đã bị bom, pháo địch khống chế, mặt khác vào mùa mưa lũ nước sông dâng cao. Thiếu lương thực, đạn dược, thông tin liên lạc không đảm bảo… đã làm ảnh hưởng rất lớn đến tinh thần binh lính trong khi đó quân VNCH đã cơ bản chiếm các khu vực thị xã và tiến sát đến Thành cổ tạo nên thế bao vây buộc Quân Giải phóng co cụm về phòng thủ tại Thành cổ Quảng Trị.
Trước tình thế nguy gấp, 1 giờ ngày 16-9 Ban Chỉ huy bảo vệ Thành cổ được lệnh cho các lực lượng rút khỏi Thành cổ về tả ngạn sông Thạch Hãn để bảo toàn lực lượng còn lại. Kết thúc cuộc chiến 81 ngày đêm chiến đấu bảo vệ Thành cổ và thị xã Quảng Trị.
Do tác động bởi bom đạn của cả hai bên trong cuộc chiến đấu chống phản kích tái chiếm bảo vệ Thành cổ và thị xã Quảng Trị trong 81 ngày đêm năm 1972, Nhà thờ Tri Bưu đã bị phá huỷ gần như hoàn toàn, chỉ còn sót lại bộ khung chịu lực bằng bê tông cốt thép và một mảng tường xây bằng gạch của gác chuông phía cánh tả của nhà thờ. Năm 2000, được sự chấp thuận của Giáo hội Thiên chúa giáo tại Huế và được sự ủng hộ, đóng góp nhiệt thành của các tín đồ thiên chúa giáo đang định cư ở nước ngoài cùng đông đảo bà con giáo dân giáo xứ Tri Bưu, Nhà thờ Tri Bưu một lần nữa được trùng tu, sửa chữa lại. Trên cơ sở nền móng và các phần dầm, trụ vài được đúc bằng bê tông chịu lực của ngôi nhà thờ cũ trước đây, người ta đã tận dụng để xây dựng lại Nhà thờ Tri Bưu tồn tại như hiện nay.
Di tích Nhà thờ Tri Bưu là một trong 07 di tích thành phần thuộc di tích “Thành cổ Quảng Trị và những địa điểm lưu niệm sự kiện 81 ngày đêm năm 1972” được Thủ tướng xếp hạng di tích quốc gia đặc biệt theo quyết định số 2383QĐ-TTg ngày 09/12/2013.
4. Di tích trường Bồ Đề
Di tích Trường Bồ Đề nằm bên trục đường Trần Hưng Đạo, thuộc địa phận phường III, thị xã Quảng Trị; cách thành phố Đông Hà – trung tâm tỉnh lỵ Quảng Trị chừng 15km về hướng đông nam, cách Thành cổ Quảng Trị chừng 1km về hướng tây nam.
Trường Bồ Đề được xây dựng vào năm 1959, do tỉnh Hội Phật giáo Quảng Trị phát tâm quyên góp từ lòng hảo tâm của bà con phật tử và nhân dân trên địa bàn trong phong trào tiết kiệm gạo Bồ Đề. Đó là một trường dân lập đặt dưới sự bảo trợ của Giáo hội Phật giáo tỉnh Quảng Trị. Từ khi được ra đời trường Bồ Đề đã đón nhận hàng ngàn học sinh ở bậc Tiểu học trên địa bàn đến học. Chỉ riêng niên khoá 1969 – 1970 có 1.400 em học sinh theo học tại đây. Đặc biệt với những trẻ em mồ côi, hoàn cảnh khó khăn nhà trường nhận dạy dỗ và chăm sóc tận tình, chu đáo.
Với vị trí án ngự trên trục đường quan trọng vào thị xã, trong chiến dịch chống phản kích, tái chiếm, bảo vệ thị xã và Thành cổ Quảng Trị, Trường Bồ Đề trở thành một địa điểm chốt chặn đánh của Quân Giải phóng ở hướng tây nam. Tại đây, Quân Giải phóng, bố trí Trung đoàn 88, Sư 308 đảm nhiệm chính. Ngoài ra, trong những trận đánh tập kích lớn vào cuối tháng 8 có sự hợp đồng binh chủng cùng phối hợp với Trung đoàn 165 và sự chi viện yểm trợ của các đơn vị pháo sư đoàn, pháo chiến dịch. Sau khi nhận lệnh của Bộ Tư lệnh, Sư đoàn 308 lệnh cho Trung đoàn 88 thực hiện nhiệm vụ, nhanh chóng chiếm địa bàn, bám chốt tại Trường Bồ Đề. Cuộc chiến ở đây đã diễn ra bắt đầu từ giữa tháng 7-1972, nhưng từ tháng 8 trở đi, khi địa bàn của Quân Giải phóng ngày càng thu hẹp, thiếu công sự, cuộc chiến đấu mỗi ngày thêm một quyết liệt, những trận đánh giằng co, đẫm máu giữa hai bên diễn ra trong lòng thị xã. Trường Bồ Đề nằm trên trục chính của thị xã dẫn vào Thành cổ nên tại đây đã xảy ra những cuộc giành giật sinh tử để ngăn chặn đường tiến công của quân VNCH từ hướng tây nam xuống. Trung đoàn 88, Sư 308 vừa chủ động chặn đánh ở phía trước vừa tổ chức tiến công bằng các trận tập kích, phản kích nhỏ, ngày đêm giữ vững trận địa chốt.
Đến đầu tháng 9, những trận mưa bão kéo dài, nước sông Thạch Hãn dâng cao làm cho hầm hào, công sự của quân giải phóng bị sụt lỡ, sự tiếp viện gặp nhiều khó khăn. Lợi dụng tình hình đó, Mỹ tăng cường máy bay B52, máy bay tiềm kích, pháo hạm… yểm trợ cùng với 7 lữ đoàn bộ binh, 13 chi đoàn xe tăng thiết giáp mở các cuộc tấn công vào các trận địa của quân giải phóng.
Trước tình hình đó, Bộ Tư lệnh đã ra lời kêu gọi toàn thể cán bộ chiến sĩ nhận rõ tình hình, thời cơ, chuyển biến mạnh mẽ về nhận thức, phương pháp hành động không chỉ ngăn chặn mà còn chủ động tấn công, kiên quyết tấn công tiêu diệt nhiều sinh lực địch. Đáp lại lời kêu gọi đó, vượt lên mọi khó khăn gian khổ và hy sinh ác liệt do mưa bão và bom pháo Mỹ, các chiến sĩ Quân Giải phóng dũng cảm chiến đấu, bám trụ kiên cường vừa chốt chặn vừa tập kích tiến công. Từ ngày 4-9 đến 15-9, trên hướng tây nam tiếp tục diễn ra nhiều trận đánh quyết liệt. Đến 1 giờ ngày 16-9 Ban Chỉ huy bảo vệ Thành cổ được lệnh cho các lực lượng rút khỏi Thành cổ và thị xã Quảng Trị về tả ngạn sông Thạch Hãn để bảo toàn lực lượng còn lại. Kết thúc cuộc chiến 81 ngày đêm chiến đấu bảo vệ Thành cổ và thị xã Quảng Trị.
Di tích Trường Bồ Đề là một trong số ít ỏi các công trình kiến trúc còn lại sau chiến tranh của một thị xã Quảng Trị vốn tương đối sầm uất. Sự tồn tại của trường Bồ Đề đến ngày nay với những mảng tường lổ chỗ vết đạn là một bằng chứng về sự ác liệt của cuộc chiến tranh tàn khốc trong số phận của một thị xã từng là tỉnh lỵ của tỉnh Quảng Trị. Đó là một minh chứng hùng hồn về tội ác hủy diệt, một sự đau thương mất mát của người dân Quảng Trị phải gánh chịu trong cuộc chiến tranh.
Di tích Trường Bồ Đề là một trong 07 di tích thành phần thuộc di tích “Thành cổ Quảng Trị và những địa điểm lưu niệm sự kiện 81 ngày đêm năm 1972” được Thủ tướng xếp hạng di tích quốc gia đặc biệt theo quyết định số 2383QĐ-TTg ngày 09/12/2013.
5. Di tích bến sông Thạch Hãn
Bến sông Thạch Hãn nguyên là một bến sông của các chuyến đò ngang qua lại trên sông Thạch Hãn nối thị xã Quảng Trị bên bờ Nam với xóm làng vùng Triệu Thượng, Triệu Phong ở bên bờ Bắc. Đây là tuyến giao thông thủy có ý nghĩa quan trọng trong giao lưu kinh tế, văn hóa của dân cư hai bên bờ từ rất lâu đời.
Trong chiến dịch chống phản kích, tái chiếm bảo vệ Thành cổ 81 ngày đêm năm 1972, mọi sự chi viện cho Thành cổ và thị xã bằng đường bộ qua cầu Quảng Trị gặp rất nhiều khó khăn do phía quân VNCH liên tục khống chế khu vực này. Do vậy, để chi viện trực tiếp cho Thành cổ và thị xã chỉ còn tuyến đường duy nhất là bằng đường sông. Bến sông Thạch Hãn trở thành địa điểm có vai trò quan trọng trong việc chi viện trực tiếp cho Thành cổ và thị xã Quảng Trị. Bến sông Thạch Hãn phía bờ Nam, cách Dinh Tỉnh trưởng – nơi đặt Sở chỉ huy và trạm phẩu thuật tiền phương của Quân Giải phóng khoảng 20m, là điều kiện thuận lợi tập kết quân, giao hàng hóa, đạn dược, nhu yếu phẩm và đón nhận thương binh, tử sĩ về tuyến sau.
Lực lượng đảm nhiệm tuyến vận tải chi viện bằng đường sông chủ yếu do Tiểu đoàn 166 của Binh đoàn 559; bộ đội chủ lực Trung đoàn 48 của Sư 320B và Trung đoàn 95 Sư 325 đảm nhiệm cùng với lực lượng vũ trang địa phương, dân quân du kích và nhân dân vùng Triệu Phong, Gio Linh. Với tinh thần “tất cả vì Thành cổ”, bộ đội chủ lực và nhân dân địa phương đã huy động hết mọi khả năng, vượt qua không biết bao nhiêu “hàng rào lửa” của đối phương cả trên bộ, trên sông để giữ vững tuyến liên lạc, đáp ứng kịp thời những yêu cầu của chiến trường.
Trong chiến dịch chống phản kích, tái chiếm bảo vệ Thành cổ 81 ngày đêm năm 1972, có rất nhiều tuyến chi viện bằng đường sông cho chiến trường Thành cổ và thị xã Quảng Trị:
– Tuyến chi viện từ Mai Xá (xã Gio Mai, huyện Gio Linh) qua Ngã ba Gia Độ vào sông Thạch Hãn lên thị xã. Tuyến này do lực lượng Tiểu đoàn 166 vận tải đường thủy – Binh trạm 12 – Bộ Tư lệnh Trường Sơn là đơn vị chủ lực đảm nhiệm.
– Tuyến chi viện từ Tả Kiên (xã Triệu Giang, huyện Triệu Phong) dùng bằng thuyền máy lên thị xã do Trung đoàn 48 đảm nhiệm.
– Tuyến chi viện bằng đường bộ vào Nhan Biều, Xuân An (xã Triệu Thượng, huyện Triệu Phong) vượt sông Thạch Hãn qua thị xã do Sư 325 đảm nhiệm.
Tất cả các tuyến chi viện này chủ yếu tập kết vào địa điểm Bến sông Thạch Hãn ở bờ Nam để chuyển về Sở chỉ huy.
Phương tiện chủ yếu là thuyền máy, thuyền cao su, thuyền gỗ… Trong thời gian từ cuối tháng 7, khi Mỹ và quân VNCH tăng cường bắn phá tuyến chi viện, các phương tiện vận chuyển bị hư hỏng nhiều, các chiến sĩ Quân Giải phóng phải dùng tre, gỗ, thân cây chuối… kết thành bè để vận chuyển đảm bảo chi viện cũng như vận chuyển thương binh tử sĩ về tuyến sau được thông suốt. Trung bình mỗi này chi viện cho thị xã từ 4 đến 6 tấn vũ khí, hàng hoá, nhu yếu phẩm… Hàng đêm, súng đạn, lương thực, thuốc men, lực lượng, cả báo, thư… từ hậu phương được các đơn vị vận tải đều đặn đưa vào Thành cổ và thị xã để tiếp sức chiến đấu cho các lực lượng bảo vệ thị xã và đưa tử sỹ, thương binh về tuyến sau.
Công tác vận chuyển, bảo đảm hậu cần, kỹ thuật và cứu chữa thương binh ra vào Thành cổ luôn bị quân VNCH khống chế ngày càng quyết liệt. Mỗi chuyến hàng vào đến bờ Nam của Bến sông Thạch Hãn là một trận chiến đấu cam go, nguy hiểm và phải có hiệp đồng chặt chẽ với lực lượng công binh trung đoàn và sư đoàn rà phá bom từ trường của đối phương thả dưới sông, đồng thời phối hợp với Trung đoàn 27 đánh mạnh ở trên bờ sông. Những đêm gay go còn phải hiệp đồng với hỏa lực bắn thẳng, cối 122mm của Sư đoàn 325 ở Xuân An bắn vào khống chế, tạo điều kiện cho thuyền sang Thành cổ. Trên bến đò Nhan Biều (ở bờ Bắc) sang Thành cổ do Sư 325 phụ trách cũng rất ác liệt. Lúc đầu, đơn vị có thuyền cao su chuyên chở qua sông, nhưng do bị đánh hỏng nhiều, không còn để sử dụng, các chiến sĩ phải chặt tre, gỗ, thân cây chuối kết lại thành bè để đêm đêm chở đạn, gạo sang Thành cổ và nhận thương binh, tử sỹ đưa về bờ Bắc. Số chuyến đò ra vào thị xã trong 81 ngày đêm không đếm xuể, nhiều lần chở thương binh qua sông, pháo quân VNCH bắn tới tấp, anh em lấy thân mình che cho đồng đội…. Các chiến sĩ phục vụ trên bến từ Nhan Biều đến thị xã Quảng Trị là những chiến sĩ gan dạ, sẵn sàng xả thân vì nhiệm vụ, xứng đáng với niềm tin của đồng đội đang chiến đấu ở phía trước.
Từ đầu tháng 9, lợi dụng trời mưa to, nước lũ, quân VNCH mở đợt tiến công lớn bằng hỏa lực vào tuyến chi viện trên sông Thạch Hãn gọi là “kế hoạch phóng lôi”. Suốt 48 giờ liền, pháo binh, không quân và pháo trên tàu của hạm đội 7 bắn dữ dội vào khu vực trận địa và bến vượt của quân giải phóng; máy bay B52 rãi bom khắp bờ Bắc sông Thạch Hãn, đặc biệt khu vực Nhan Biều, Ái Tử, Đông Hà… để ngăn chặn mọi sự chi viện cho Thành cổ và thị xã Quảng Trị. Trên Bến sông Thạch Hãn, công tác tiếp tế gặp vô cùng khó khăn, nhiều đêm các đơn vị được lệnh tăng cường cho Thành cổ phải sử dụng phao bơi để vượt sông Thạch Hãn từ bờ Bắc sang bờ Nam.
Nhờ tinh thần anh dũng của các đơn vị vận tải nên mặc dù quân VNCH điên cuồng đánh phá để ngăn chặn, nhưng tuyến giao thông huyết mạch liên lạc với Thành cổ vẫn giữ vững đến ngày cuối cùng. Bến sông Thạch Hãn với công việc thầm lặng của mình đã góp phần quan trọng cho chủ lực Quân Giải phóng ở Thành cổ trong suốt 81 ngày đêm oanh liệt. Dòng sông Thạch Hãn trong cuộc chiến đấu ác liệt ấy đã nhuốm máu các anh hùng xã thân vì nền độc lập dân tộc, trở thành nơi hóa thân của những linh hồn bất tử trên đường về cõi vĩnh hằng.
Năm tháng qua đi, sông Thạch Hãn vẫn âm thầm làm việc hằng hữu của mình là mang nước và phù sa về xuôi, bến sông Thạch Hãn vẫn còn đó như nhắc nhở về một thời chiến tranh ác liệt mà mỗi tấc đất, mỗi địa điểm đều gắn với những chiến công hào hùng và sự hy sinh anh dũng. Sau khi đất nước thống nhất, hàng năm, cứ đến ngày 27-7, nhân dân hai bên bờ thường thả đèn, hương hoa trên sông Thạch Hãn để tưởng niệm những anh hùng liệt sĩ đã hy sinh. Hoạt động này đến nay đã trở thành một lễ hội văn hóa đang được tổ chức ngày càng quy mô và mang nhiều ý nghĩa xã hội thiết thực.
Để tri ân và tưởng niệm những chiến sĩ đã hy sinh trên sông Thạch Hãn trong chiến dịch chống phản kích, tái chiếm bảo vệ Thành cổ 81 ngày đêm năm 1972. Năm 2012, UBND thị xã Quảng Trị đã huy động nguồn vốn từ xã hội hoá để đầu tư xây dựng Bến thả hoa, Nhà Hành lễ, Quảng Trường Giải phóng, Tháp chuông ở bờ Nam và Bến thả hoa, Đền tưởng niệm, Tượng đài bờ Bắc và trở thành địa điểm viếng thăm, tham quan tại thị xã Quảng Trị.
Di tích Bến sông Thạch Hãn là một trong 07 di tích thành phần thuộc di tích “Thành cổ Quảng Trị và những địa điểm lưu niệm sự kiện 81 ngày đêm năm 1972” được Thủ tướng xếp hạng di tích quốc gia đặc biệt theo quyết định số 2383QĐ-TTg ngày 09/12/2013.
6. Di tích chốt Long Giang
Di tích Chốt Long Quang nằm trên trục huyện lộ ĐH 41 thuộc địa phận làng Long Quang, xã Triệu Trạch, huyện Triệu Phong; cách thành phố Đông Hà – trung tâm tỉnh lỵ Quảng Trị chừng 30km về hướng đông nam; cách thị trấn Ái Tử – trung tâm huyện lỵ Triệu Phong khoảng 20 km về hướng đông; cách thị xã Quảng Trị chừng 15km về hướng đông.
Chốt Long Quang là địa điểm quan trọng của Quân Giải phóng chặn đánh các cuộc tấn công của quân VNCH ở hướng đông bắc, bảo vệ Thành cổ và thị xã Quảng Trị 81 ngày đêm năm 1972.
Ngay sau khi quân đội VNCH mở cuộc hành quân tái chiếm Quảng Trị, hướng đường biển vào do Thủy quân lục chiến đảm nhiệm. Xác định âm mưu và hướng tấn công của quân đội VNCH, Bộ Tư lệnh chiến dịch quyết định thành lập Mặt trận cánh Đông, tập trung lực lượng chặn đánh các hướng tấn công vào thị xã Quảng Trị. Từ giữa tháng 7, sau những thất bại trong các đợt tấn công vào Thành cổ và thị xã Quảng Trị, quân VNCH bắt đầu có những chuyển hướng mới, cho Thủy quân lục chiến đổ bộ vào các điểm cao tại Linh An, xã Triệu Trạch âm mưu chiếm đánh Thành cổ từ hướng bắc. Để ngăn chặn bước tiến công của Thủy quân lục chiến, Quân Giải phóng đã chủ trương xây dựng phòng tuyến chốt tại Long Quang.
Chốt Long Quang được xây dựng trên hệ thống đê chắn cát, chắn nước biển xâm nhập của dân địa phương. Địa điểm này nằm ở bìa làng Long Quang về phía đông, trên một vùng cát giáp với thôn Linh An, thuộc xã Triệu Trạch, huyện Triệu Phong; cách tỉnh lộ 64 (đường từ thị xã Quảng Trị về Cửa Việt) chừng 4km về hướng nam; cách thị xã Quảng Trị chừng hơn 12 km về phía đông bắc. Chốt Long Quang trở thành một vị trí chiến lược hết sức quan trọng trên Mặt trận cánh Đông, nơi mà Quân Giải phóng quyết tâm chốt giữ bằng mọi giá, vì nếu mất Long Quang thì sẽ mất luôn trục đường 64 – một trong những trục đường giao thông huyết mạch nối liền hai điểm quan trọng là thị xã Quảng Trị và cảng Cửa Việt và sẽ uy hiếp nghiêm trọng vùng giải phóng phía bắc.
Chốt Long Quang tồn tại từ chiến dịch chống phản kích, tái chiếm bảo vệ Thành cổ và thị xã Quảng Trị 81 ngày đêm năm 1972 đến sau khi Hiệp định Pari có hiệu lực (27-1-1973).
Về phía Quân Giải phóng, lực lượng chủ lực tham gia giữ chốt trong thời gian này có Tiểu đoàn 8, Trung đoàn 64, Sư 320B (từ tháng 7 đến 10-1972) và Tiểu đoàn 1, 2, 3 thuộc Trung đoàn 48, Sư 320B (từ tháng 10-1972 đến 1-1973). Ngoài ra, còn có Tiểu đoàn 14 bộ đội địa phương Quảng Trị; C1, C2 huyện đội Triệu Phong và nhất là sự tham gia tác chiến của lực lượng dân quân du kích địa phương. Ban Chỉ huy của bộ đội chủ lực ở chốt Long Quang đóng tại xóm giữa thôn Vân Tường xã Triệu Trạch.
Về phía quân lực VNCH, từ khi bắt đầu thực hiện đổ bộ vào Linh An ngày 22-7-1972, chiếm Long Quang nhằm làm chủ tuyến đường 64 để đánh lên Thành cổ và thị xã Quảng Trị từ hướng bắc đến các trận chiến quyết liệt lấn chiếm vùng giải phóng từ cuối năm 1972 và kết thúc sau khi Hiệp định Paris ký kết, lực lượng quân lực VNCH tham gia gồm các Lữ đoàn 147, 258, 369 Thuỷ quân lục chiến, cộng với thiết đoàn 17, 20… có xe tăng M48, T11, xe bọc thép, máy bay B52, máy bay trinh sát, pháo hạm yểm trợ.
Trong cuộc chiến chống phản kích, tái chiếm bảo vệ Thành cổ và thị xã Quảng Trị 81 ngày đêm (từ ngày 28-6 đến 16-9-1972), Long Quang là một trong những vị trí tiền tiêu bảo vệ vòng ngoài phía bắc và đông bắc Thành cổ. Chốt được Tiểu đoàn 8, Trung đoàn 64, Sư đoàn 390 cùng nhân dân địa phương xây dựng bằng hệ thống hầm hào, công sự… Với quyết tâm kiên quyết bám chốt không cho quân VNCH thực hiện âm mưu đánh viện cho Thành cổ, Tiểu đoàn 8 và lực lượng dân quân du kích Triệu Trạch đã đánh lùi nhiều đợt phản công của quân lực VNCH, góp phần cùng các trận địa chốt trên Mặt trận cánh đông và các mặt trận khác đánh bại âm mưu đánh nhanh thắng nhanh của quân VNCH, kiên quyết giữ vững Thành cổ Quảng Trị.
Sau 81 ngày đêm bảo vệ thị xã và Thành cổ Quảng Trị, Quân Giải phóng buộc phải rút lui sang bờ bắc sông Thạch Hãn, nhưng tại chốt Long Quang lực lượng Quân Giải phóng vẫn bám trụ giữ chốt không cho quân đội VNCH thực hiện âm mưu chiếm tỉnh lộ 64, bảo vệ được vùng giải phóng phía đông bắc huyện Triệu Phong.
Sau khi chiếm được Thành cổ Quảng Trị, từ cuối tháng 9, lợi dụng mùa mưa, nước sông Thạch Hãn dâng cao quân đội VNCH bắt đầu mở cuộc tiến công về hướng đông thị xã với ý đồ dùng hoả lực, xung lực đánh bật lực lượng Quân Giải phóng ra khỏi trận địa phòng ngự, từ đó tiếp tục đánh chiếm Ái Tử, Đông Hà, Cửa Việt và tiếp tục tấn công giành lại toàn bộ vùng đất đã mất. Thực hiện âm mưu đó, Mỹ và chính quyền Sài Gòn tăng cường nhiều lực lượng tinh nhuệ, đưa thêm 4 tiểu đoàn Lính thuỷ đánh bộ và 2 chi đoàn thiết giáp, nâng số quân ở tuyến tiếp giáp từ chợ Sãi, Bích La đến Long Quang lên 13 tiểu đoàn và 5 chi đoàn xe tăng, thiết giáp.
Tại Long Quang, quân đội VNCH đã huy động một lực lượng lớn gồm Lữ đoàn 147, 258, 369 Thuỷ quân lục chiến cộng với Thiết đoàn 17, 20… có xe tăng M48, T11, xe bọc thép với mục tiêu là xóa bỏ trận địa chốt, chọc thủng tuyến phòng thủ Thạnh Hội – Long Quang – Bích La của Quân Giải phóng, hướng đến mục tiêu chiếm cảng quân sự Cửa Việt, khai thông và làm chủ địa bàn dọc theo sông Hiếu đến Đông Hà khi có điều kiện.
Thực hiện ý đồ đó, quân VNCH đã huy động lực lượng máy bay chiến lược B52, máy bay tiêm kích F4, F5 rải bom đánh phá ra vùng hậu phương trực tiếp phía Bắc Thạch Hãn. Từ Long Quang đến Triệu Phước máy bay Mỹ và pháo binh đã thực hiện 132 phi vụ B52 rải bom đánh toạ độ, bắn hàng vạn quả pháo ở mặt đất và pháo hạm đội từ biển bắn vào.
Để ngăn chặn âm mưu của quân đội VNCH, giữ vững vùng giải phóng và tạo điều kiện cho các đơn vị củng cố xây dựng lực lượng sẵn sàng chuyển sang phản công khi có thời cơ. Từ cuối tháng 9 đến đầu tháng 10-1972, trên toàn mặt trận Trị – Thiên, Quân Giải phóng chuyển sang phòng ngự trận địa. Tại Long Quang, ngay từ cuối tháng 9, Tiểu đoàn 8, Trung đoàn 64, Sư 390 cùng với lực lượng du kích dân quân xã Triệu Trạch tiếp tục đào hầm hào công sự liên hoàn quanh chốt với tinh thần “tất cả cho các chiến sĩ trên chốt”. Nhân dân Long Quang nói riêng và nhân dân Triệu Trạch nói chung đã tình nguyện tháo gỡ nhà cửa ủng hộ cho việc xây dựng chốt. Đến cuối tháng 10-1972, hệ thống chốt Long Quang đã hoàn thành có chiều rộng chừng 400m, chiều dài khoảng 600 – 700m theo dọc đê chắn cát ở phía Đông (các hầm ở đây chủ yếu được xây dựng theo loại hầm chữ A).
Trong mùa mưa từ tháng 9-1972 đến tháng 1-1973, cuộc chiến ở chốt Long Quang diễn ra vô cùng ác liệt, quân lực VNCH đã cho Thủy quân lục chiến thực hiện nhiều cuộc hành quân lấn dũi lớn mang tên “sóng thần 36”, “sóng thần 45”, “sóng thần 48”,… rồi cuộc hành quân mang tên “Tăng-gô-xi-ti”. Trong các cuộc hành quân này, lực lượng Thủy quân Lục chiến đã thực hiện 5 chiến thuật:
– Dùng binh, hoả lực ồ ạt tấn công chính diện từ Linh An ra.
– Mở hướng đánh vừa tấn công chính diện vừa đánh thọc sườn.
– Đánh mật tập (tức đánh vào ban đêm).
– Đào giao thông hào vây lấn.
– Dùng binh, hỏa lực đánh hủy diệt từng điểm chốt.
Ngoài ra, Thủy quân Lục chiến còn thực hiện nhiều thủ đoạn khác như ban đêm cho trinh thám đi dò tìm các mục tiêu, sử dụng “cây nhiệt đới” xác định các toạ độ mà chúng nghi ngờ là hầm chốt của ta để tiêu diệt.
Về chiến thuật của Quân Giải phóng tại Long Quang, chủ yếu sử dụng chiến thuật binh lực phân tán, hoả lực tập trung, bố trí theo thế răng cưa, có tuyến trước tuyến sau, có chốt giữ, có lực lượng thọc sâu tập kích.
Trong vòng hơn 4 tháng (từ tháng 9-1972 – 1-1973), quân và dân trên chốt Long Quang đã tiến hành nhiều đợt tập kích đánh dũi địch, tiêu biểu là các trận tập kích tại điểm cao 11 (Linh An). Cao điểm 11 cách chốt Long Quang chừng 1km về phía đông nam. Đây được coi là một điểm cao chiến lược nằm trên vùng cát phía đông huyện Triệu Phong, nằm án ngữ những tuyến đường đi lại từ Linh An – Long Quang ra biển, từ Lệ Xuyên, Bồ Bản vào Gia Đẳng. Quân VNCH trên điểm cao có thể quan sát được phạm vi hàng chục ki-lô-mét vuông để chỉ điểm cho máy bay, pháo binh bắn vào chốt Long Quang uy hiếp khống chế mọi hoạt động của Quân Giải phóng ở vùng này. Ngoài ra, xung quanh điểm cao 11 có các điểm cao khác như 12, 13, Đồi Chum, đồi Cây Ba Chạc… quân VNCH cắm các chốt bảo vệ tiền tiêu. Đây chính là những lợi thế mà quân VNCH có được trong cuộc hành quân đánh vào chốt Long Quang.
Để phá vỡ thế phong tỏa của quân VNCH, lực lượng giữ chốt Long Quang quyết tâm phải tiêu diệt cho bằng được cao điểm 11. Vì thế, tại đây đã diễn ra nhiều trận đánh lớn tiêu biểu: Trận tập kích ngày 1-10-1972, Quân Giải phóng đã diệt 21 quân và làm nổ một kho đạn, ngăn chặn được cuộc hành quân lấn dũi của quân VNCH vào hướng Long Quang, Gia Đẳng. Ngày 13-10-1972, quân VNCH dùng bộ binh kết hợp pháo binh và máy bay trực thăng yểm hộ thực hiện chiến thuật cho máy bay xoáy trôn ốc vòng lên cao điểm 11 rồi mới thọc xuống Long Quang để đánh bất ngờ. Nhưng với tinh thần cảnh giác, quyết tâm đánh địch bảo vệ chốt, các chiến sĩ Quân Giải phóng đã bắn hạ 2 trực thăng, bẽ gãy đợt tiến công bộ binh vào chốt Long Quang. Đêm 18-10, Trung đội 2, đại đội 7, tiểu đoàn 8 Trung đoàn 64 do Trung đội trưởng Vũ Thanh Bình chỉ huy lại một lần nữa tập kích ở điểm cao 11. “Con mắt cú vọ của vùng cát Triệu Phong” bị đập nát, quân VNCH mất một vị trí tiền tiêu quan trọng, không còn khống chế hoạt động của bộ đội chủ lực ở tuyến chốt Long Quang – Linh An nữa [1].
Trận chiến đấu ác liệt nhất là trận diễn ra ở đập Nè chốt Long Quang vào ngày 18-11-1972. Sau khi huy động hàng chục lượt máy bay B52 rải đạn cùng hàng trăm lượt pháo dọn đường và huỷ diệt trận địa, quân VNCH đưa Đại đội 2 Tiểu đoàn 2 thuộc Lữ đoàn 258 với 8 xe tăng dưới sự chỉ huy của Thiếu uý Ngô Văn Hải, vừa tấn công theo hướng chính diện và thọc sườn vào chốt. Lực lượng dân quân du kích gồm có 13 chiến sĩ dưới sự chỉ huy của xã đội trưởng Phan Tư Kỳ đã chiến đấu rất anh dũng, diệt gọn 1 đại đội địch, bắn cháy 3 xe tăng, bảo vệ được trận địa. Sự kiện này gây ra tiếng vang lớn làm uy hiếp tinh thần của binh lính VNCH, phá tan cuộc hành quân “Sóng thần 36”; đồng thời cổ vũ tinh thần đấu tranh của quân và dân ta nói chung và điểm chốt Long Quang nói riêng.
Đến cuối mùa mưa năm 1972, mục tiêu đánh chiếm vùng giải phóng và cảng Cửa Việt vẫn chưa hoàn thành trong lúc Hiệp định Paris sắp ký kết, Mỹ và chính quyền Sài Gòn đã mở cuộc hành quân “Tăng-gô-xi-ti” mục tiêu đánh chiếm cảng Cửa Việt. Khác với các cuộc “Sóng thần” trước, cuộc hành quân “Tăng-gô-xi-ti” do đích thân các tướng Mỹ vạch kế hoạch và giao cho quân VNCH tác chiến. Để thực hiện tham vọng đó, Bộ Chỉ huy Quân đoàn 1 vội vã bổ sung thêm Lữ đoàn đặc nhiệm 147 và điều thêm Lữ đoàn 258, các Thiết đoàn 17, 18, 20, 3 tiểu đoàn pháo binh, 4 tàu chiến và 5 tàu khu vực hạm đội 7 của Mỹ tham gia cuộc hành quân này.
Cảng Cửa Việt nằm sâu trong vùng giải phóng, trước đó được Mỹ tập trung xây dựng thành cảng lớn nhất tỉnh Quảng Trị. Mặt khác, nó còn là một trong những vị trí quan trọng về kinh tế, chính trị và quân sự miền Trung, là đầu mối giao thông đường sông và đường biển ở khu vực này. Chiếm được cảng Cửa Việt Mỹ – ngụy sẽ cắt được sự viện trợ bằng đường biển của hậu phương miền Bắc cho tiền tuyến mà trực tiếp là chiến trường Trị – Thiên. Đồng thời sẽ bịt cửa khẩu của Chính phủ Cộng hoà miền Nam Việt Nam giao lưu với quốc tế bằng đường biển. Từ Cửa Việt, quân đội VNCH sẽ có điều kiện để đưa súng đạn, binh lính đánh chiếm vùng giải phóng, thực hiện âm mưu phá hoại Hiệp định Paris sau này.
Cửa Việt nằm gọn trong xã Triệu Vân (nay thuộc Triệu An) và một phần của xã Triệu Trạch, cách chốt Long Quang chừng 10km về phía đông bắc. Để chiếm được Cửa Việt trước hết quân đội VNCH phải đánh bật được hệ thống chốt của Quân Giải phóng từ Thạnh Hội, Long Quang đến Vân Hoà.
Đứng trước âm mưu và hành động của quân VNCH, Bộ Tư lệnh Mặt trận cánh Đông hạ quyết tâm: “Bằng bất cứ giá nào cũng kiên quyết tập trung mọi lực lượng sẵn có, kịp thời dập tắt mọi hành động của địch, bảo vệ vững chắc và toàn vẹn vùng giải phóng mà trọng điểm là khu vực Nam Cửa Việt…” [2]. Trung đoàn 48 được giao nhiệm vụ giữ chốt Long Quang – Linh An.
Tại đây, ngày 26-1-1973, Trung đoàn 48 đã đập tan đợt phản kích của Tiểu đoàn 5 và Tiểu đoàn 8 Lữ đoàn đặc nhiệm, giữ vững khu vực bắc Linh An. Các trận chiến tiếp theo của Trung đoàn 48 tại Long Quang – Linh An diễn ra hết sức quyết liệt, nhiều lần địch tập trung bộ binh, xe tăng tiến công liên tục cùng với hoả lực, pháo binh đánh phá dữ dội gây cho ta những thương vong lớn. Bộ Tư lệnh Mặt trấn cánh Đông đã kịp thời gửi điện động viên đến các đơn vị và kêu gọi các cán bộ, chiến sĩ nhận rõ ý nghĩa lịch sử của cuộc chiến đấu bảo vệ vùng giải phóng trong thời điểm sắp có hiệp định ngừng bắn, quyết giành thắng lợi to lớn, hoàn thành nhiệm vụ của Mặt trận và cả nước giao phó.
Được sự chỉ đạo và cổ vũ tinh thần của Bộ Tư lệnh, Mặt trận cánh đông, ngày 17-1-1973, Trung đoàn 48 đánh tan âm mưu hủy từng điểm chốt của quân VNCH tại Long Quang. Sau khi huy động một lực lượng lớn pháo binh, hoả lực dọn đường, địch tăng cường Tiểu đoàn 5, Lữ đoàn 258, Thiết đoàn 20, xe tăng M48 tiến công vào hướng chính diện; đồng thời dùng B52, pháo giàn, pháo mù yểm trợ cho bộ binh ồ ạt tấn công vào hướng thọc sườn. Các trận đánh liên tục diễn ra vô cùng ác liệt. Sau hơn một ngày đêm chiến đấu, với tinh thần quyết tử bảo vệ chốt, Trung đoàn 48 đã đánh lui được cuộc hành quân của địch, bắn cháy 2 xe tăng tiêu diệt hàng trăm quân lính.
Sau khi Hiệp định Paris có hiệu lực (28-1-1973), trên khu vực phía đông, quân đội VNCH và Quân Giải phóng cùng lực lượng dân quân du kích địa phương ở trong thế trận cài răng lược. Quân Giải phóng vẫn làm chủ được cảng quân sự Cửa Việt; còn quân đội VNCH vẫn không nguôi từ bỏ ý đồ thực hiện âm mưu đánh chiếm vùng giải phóng, đặc biệt là cảng Cửa Việt. Trên toàn mặt trận nói chung và tại chốt Long Quang nói riêng Quân Giải phóng kiên quyết đánh tan mọi âm mưu lấn dũi bảo vệ từng tấc đất. Thời gian tiếp sau đó, ngày 30 đến 31-1-1973, quân đội VNCH thực hiện trận hợp đồng binh chủng, huy động 2 tiểu đoàn Lính thuỷ đánh bộ đánh vào Long Quang để tiến ra Cửa Việt nhưng cuộc tiến đánh này đã bị lực lượng Tiểu đoàn 2 và 3, Trung đoàn 48 chặn đánh quyết liệt ở bãi cát Thanh Hội, tiêu diệt hàng trăm tên, bắn cháy hơn 10 xe tăng, góp phần cùng toàn mặt trận đập tan cuộc hành quân “Tăng-gô-xi-ti” của Mỹ và chính quyền Sài Gòn.
Qua nhiều tháng trời liên tục chiến đấu (từ tháng 7-1972 đến 1-1973), trong điều kiện mưa lũ, bom đạn vô cùng ác liệt, các đơn vị Quân Giải phóng cùng dân quân du kích xã Triệu Trạch trên tuyến chốt Long Quang – Linh An đã hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ ngăn chặn các cuộc hành quân lấn chiếm của quân đội VNCH, giữ vững vùng giải phóng. Chốt Long Quang được mệnh danh là “Chốt thép”.
Để ghi nhận chiến công và tưởng nhớ các chiến sỹ đã hy sinh bảo vệ chốt Long Quang, Huyện uỷ, HĐND, UBND huyện Triệu Phong, chính quyền và nhân dân xã Triệu Trạch đã đầu tư công sức tiền của đã xây dựng một bia đài di tích trên khu vực nguyên là trận địa cũ để làm nơi tưởng niệm, hương khói cho những người đã khuất. Đây là nơi để các cựu chiến binh, những người chiến sĩ giải phóng quân từng chiến đấu trên mặt trận này về thăm lại chiến trường xưa thắp một ném nhang cho những đồng chí, đồng đội của mình. Đồng thời đây cũng là nơi để giáo dục truyền thống đấu tranh cách mạng cho các thế hệ con em trên quê hương.
Di tích Chốt Long Quang là một trong 07 di tích thành phần thuộc di tích “Thành cổ Quảng Trị và những địa điểm lưu niệm sự kiện 81 ngày đêm năm 1972” được Thủ tướng xếp hạng di tích quốc gia đặc biệt theo quyết định số 2383QĐ-TTg ngày 09/12/2013.
7. Di tích chốt Ngô Xá Tây
Di tích Chốt Ngô Xá Tây nằm trên trục ĐT 581 (tỉnh lộ 68 cũ), thuộc thôn Ngô Xá Tây, xã Triệu Trung, huyện Triệu Phong, tỉnh Quảng Trị; cách thành phố Đông Hà – trung tâm tỉnh lỵ Quảng Trị chừng 25 km về phía đông nam, cách Thành cổ Quảng Trị chừng 7 km về hướng đông.
Làng Ngô Xá nằm ngay trên trục đường 68 – một trong những con đường huyết mạch từ Huế ra và từ cảng Mỹ Thuỷ lên thị xã Quảng Trị; nơi có vị trí giao thông thuận lợi bao gồm cả đường bộ lẫn đường thủy: đường bộ từ Huế ra Hải Dương, Hải Ba qua Vân Trình theo đường 68 lên thị xã Quảng Trị; đường biển vào cảng Mỹ Thuỷ, qua Hội Yên theo đường 68 lên thị xã Quảng Trị.
Sau khi mở cuộc hành quân tái chiếm Quảng Trị lấy mật danh “Lam Sơn 72”, ở hướng đông, từ biển vào do Thủy quân lục chiến đảm nhiệm, được tăng cường Thiết đoàn 18, một Chi đoàn của Thiết đoàn 17, một Tiểu đoàn pháo 155mm. Lực lượng dự bị hướng này là Chiến đoàn 4 bộ binh và Thiết đoàn 17 thiếu có sự chi viện hỏa lực của lực lượng không quân, hải quân Mỹ; ngoài ra còn có pháo binh, không quân và liên đoàn biệt động quân phòng ngự. Nằm trên hướng tiến công của quân VNCH, làng Ngô Xá có vị trí chiến lược quan trọng nằm trên hướng đông thị xã. Bao quanh làng có hệ thống sông Vĩnh Định là một trong những tuyến chi viện chủ yếu từ Mai Xá (Gio Linh) qua Ngã ba Gia Độ lên sông Thạch Hãn vào sông Vĩnh Định, tập kết tại khu vục Ba Bến (Triệu Tài) chi viện cho phía đông. Ngoài ra, trên khu vực còn có các công trình tương đối kiên cố như nhà thờ, chùa, có những rặng tre… là điều kiện thuận lợi để Quân giải phóng làm công sự, nơi trú ẩn chốt giữ phục kích ngăn chặn hướng tiến công của lực lượng Thủy quân Lục chiến vào thị xã.
Giữa tháng 6 năm 1972, để kịp thời đối phó với cuộc phản kích tái chiếm của quân lực VNCH, Bộ Tư lệnh chiến dịch quyết định thành lập Mặt trận cánh đông Quảng Trị gồm các lực lượng Trung đoàn 48, Trung đoàn 64 (vừa hành quân vào), Trung đoàn 101 (Sư đoàn 325), Trung đoàn 27 và một số đơn vị bộ đội địa phương tỉnh Quảng Trị [1]. Trung đoàn 27 được lệnh cùng một đại đội xe tăng thực hiện luồn sâu vào Ngô Xá, Thanh Lê với nhiệm vụ chặn đánh hướng tiến công của Thủy quân lục chiến trên đường 68 giữ vững và mở rộng địa bàn.
Thực hiện quyết tâm và chủ trương của cấp trên ở Mặt trận cánh đông, các Trung đoàn 64, 27, 18 cùng với bộ đội và dân quân du kích địa phương chiến đấu với lời thề “còn người còn trận địa”, “quyết tử bảo vệ quê hương”. Từ ngày 3-7-1972 trở đi, cuộc chiến đấu chốt giữ thị xã thực sự diễn ra gay go và quyết liệt thì ở Mặt trận cánh đông, quân lực VNCH đã điều thêm Lữ đoàn 369 từ Gia Đẳng đánh lên Trâm Lý, Quy Thiện, tiến vào làng Tri Bưu, Lữ đoàn 258 đánh vào hướng biển, Lữ đoàn 147 đánh vào Bích La… hòng “tái chiếm” thị xã Quảng Trị theo kế hoạch đã định. Âm mưu của quân đội VNCH là phải cắm cờ lên toà Thành cổ vào ngày 13-7, trước lúc Hội nghị toàn thể bốn bên tại Paris được nối lại sau một thời gian gián đoạn [2]. Từ ngày 12 đến 13-7-1972, Thuỷ quân lục chiến đã vượt qua Gia Đẳng, Hội Yên, Phương Lang lên Ngô Xá Đông, tiến sát cánh đồng Ngô Xá Tây, Triệu Tài… Tuy nhiên, các đợt tấn công đều bị Quân Giải phóng chặn đánh, gây cho quân VNCH nhiều tổn thất buộc phải chững lại.
Sau những thất bại trên các hướng tấn công, chủ trương “đánh nhanh thắng nhanh” không thực hiện được, quân đội VNCH bắt đầu chuyển sang thế “đánh chắc tiến chắc”. Đặc biệt, sau khi Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu và Cao Văn Viên bay ra Đà Nẵng thị sát tình hình và chỉ thị cho Trung tướng Ngô Quang Trưởng: bằng mọi giá phải cắm cờ lên Thành cổ trước ngày 18-7 (vì những ngày này hai phái đoàn ta và Mỹ dự kiến gặp nhau tại phiên gặp riêng lần thứ 14 vào ngày 19-7 tại Hội đàm Paris), để kích thích tinh thần chiến đấu của quân sĩ, chính quyền Sài Gòn tung tiền và hứa sẽ thăng chức cho tập thể và chiến hữu nào cắm được cờ lên thành Đinh Công Tráng [3].
Để đánh bại âm mưu của quân VNCH, Bộ Tư lệnh Mặt trận cánh đông, chỉ đạo các đơn vị tiếp tục tiến công để phá thế bao vây thị xã ở hướng đông, đông bắc; đồng thời thực hiện sứ mệnh quan trọng có tính sống còn là phải bảo vệ vững chắc thị xã Quảng Trị.
Nhận thức tầm quan trọng của trục đường 68 là nếu quân VNCH vượt qua được Ngô Xá, Triệu Tài sẽ nhanh chóng chiếm được thị xã từ hướng đông bắc nên sau khi mất Gia Đẳng và Phương Lang, Ngô Xá Đông bị uy hiếp. Bộ Tư lệnh Mặt trận cánh đông, chỉ đạo Đại đội 1, Tiểu đoàn 1, Trung đoàn 27 Triệu Hải cùng một đại đội xe tăng đã tổ chức luồn sâu vào làng Ngô Xá Tây, xã Triệu Trung nhằm chặn đánh lực lượng Thủy quân lục chiến đang tổ chức vượt Ngô Xá Tây, Triệu Tài lên Tri Bưu để đánh vào đông bắc Thành cổ. Lực lượng này nhanh chóng tiến hành đào hầm hào, công sự làm nơi ẩn nấp và chuẩn bị tổ chức chiến đấu ngay hai bên đường 68.
Sáng ngày 17-7-1972, Đại tá Bùi Thế Lân, Tư lệnh Sư đoàn lính thuỷ đánh bộ của VNCH đưa 3 tiểu đoàn và 2 chi đoàn xe tăng, xe bọc thép vượt qua cánh đồng Ngô Xá Đông tiến vào Ngô Xá Tây.
Trước tình hình đó, Tiểu đoàn 1 thuộc Trung đoàn 27 dưới sự chỉ huy của Tiểu đoàn trưởng Nguyễn Viết Giáp bố trí một đại đội nằm ngoài làng Ngô Xá. Đây là hướng chủ yếu theo dự định của phương án chiến đấu nhằm khống chế hoàn toàn đoạn đường 68 chạy qua làng. Phán đoán đối phương sẽ dùng bom, pháo bắn vào làng trước khi cho lính đánh ra, Tiểu đoàn 1 của Trung đoàn 27 đã bí mật và nhanh chóng cho sơ tán dân ra khỏi làng nhằm tránh thương vong [4].
Sáng ngày 17-7, như thường lệ, sau khi bom, pháo dọn đường, xe tăng, thiết giáp cùng với bộ binh quân VNCH tiến chậm vào Ngô Xá. Trong khi tiến quân, Sư đoàn Lính thuỷ đánh bộ của Đại tá Bùi Thế Lân sử dụng thủ đoạn là bắt những người dân vô tội (từ các xã Hải Dương, Hải Ba, Triệu Trung) khoảng 200 người, một số đi trước đội hình xe và lính, một số bắt ngồi lên xe bọc thép nhằm làm bia đỡ đạn cho đội hình tiến quân.
Trước tình huống khó khăn ngoài dự kiến, đang giữ chốt Ngô Xá Tây lúc này là Trung đội 1 chỉ còn 12 tay súng, do Hoàng Trọng Bảo làm Trung đội trưởng phải nhắc nhở các chiến sĩ “Trong bất cứ tình huống nào, cũng phải bảo vệ dân. Tất cả dương lê sẵn sàng đánh gần!” 3. Khi đoàn người dân và quân lính VNCH cùng xe tăng đang tiến gần điến trận địa chốt, một người phụ nữ trong đoàn đã chạy lên phía trước gọi to: “Giải phóng ơi, bắn đi, đừng cho chúng vô làng!” 4.. Ngay lập tức sau đó, một tràng AR 15 nổ, tiếng kêu của chị bị dìm đi đột ngột. Người phụ nữ đó đã anh dũng hy sinh.
Trong lúc này tính mạng của nhân dân đang bị nguy hiểm, nhưng nhận thấy lúc này quân VNCH chưa dám bắn vào đồng bào, bởi vì chúng đang lợi dụng đoàn người để làm nơi ẩn nấp, các chiến sĩ tiểu đoàn 1 vẫn cố giữ bình tĩnh. Sau khi người phụ nữ hy sinh, cả đoàn người đang dừng lại bên người phụ nữ. Bà con vây lấy đám lính rồi xô đẩy chúng, chạy dạt sang hai bên đường. Hành động đó như một tín hiệu truyền đến trận địa. Các chiến sĩ Trung đội 1 xuất kích tiến lên phía trước. Quân VNCH cho xe tăng mở hết tốc độ lao trên con đường đất xuyên qua làng Ngô Xá, tiến gần đến trận địa, tổ trưởng chốt tiền tiêu Nguyễn Thanh Hải ra lệnh cho B40 nổ súng bắn cháy xe M113 đi đầu. Số lính đi sau lùi lại rồi gọi phi pháo bắn liên tục vào trận địa của Trung đội 1. Cho đến khi trời tối, quân VNCH vẫn không làm sao vào được làng Ngô Xá Tây. Trận đánh kết thúc khi hai chiếc xe tăng của quân VNCH tháo chạy.
Hình ảnh người phụ nữ anh dũng ngã xuống trước họng súng của kẻ thù trên trận địa làng Ngô Xá Tây, mãi mãi in sâu trong ký ức chiến sĩ Trung đoàn 27 đã tiếp thêm sức mạnh chiến đấu [5]. Kết thúc trận chiến, Trung đội 1 Trung đoàn 27 đã bắn cháy 4 xe tăng, thu được 5 khẩu trung liên AR15, tiêu diệt và làm bị thương nhiều lính Thủy quân lục chiến. Về phía Trung đội 1 có 4 chiến sĩ đã anh dũng hy sinh [6].
Trận đánh trên chốt Ngô Xá Tây ngày 17-7-1972 của Trung đội 1, Tiểu đoàn 1, Trung đoàn 27 đã làm cản hướng tiến công của quân đội VNCH lên thị xã Quảng Trị qua đường 68, làm cho “kế hoạch” cắm cờ lên Thành Cổ Quảng Trị trong ngày 17, 18-7 của chính quyền Sài Gòn không thể thực hiện được.
Cuộc chiến đấu trên chốt Ngô Xá Tây còn tiếp tục kéo dài đến những ngày cuối cùng khi Quân Giải phóng rút khỏi thị xã Quảng Trị. Qua nhiều tháng trời liên tục chiến đấu, kể từ những ngày đầu khi cuộc hành quân “Lam sơn 72” của quân VNCH đến khi lực lượng bảo vệ thị xã Quảng Trị và Thành cổ rút sang bờ Bắc, quân và dân ta trên điểm chốt Ngô Xá Tây đã anh dũng chiến đấu, hoàn thành xuất sắc nhiệu vụ, tiêu diệt được một phần sinh lực của quân VNCH, phá huỷ hàng chục xe tăng, máy bay…, ngăn chặn các cuộc tấn công đánh chiếm Thành cổ và thị xã Quảng Trị.
Với đạo lý “uống nước nhớ nguồn” nhằm tưởng niệm, tri ân công lao to lớn của những người đã hy sinh trên chốt Ngô Xá Tây cũng như hàng ngàn chiến sĩ đã từng chiến đấu và và hy sinh trên mảnh đất này. Năm 2009, bằng nguồn vốn xã hội hoá, chính quyền địa phương đã xây dựng nhà bia tưởng niệm tại địa điểm Chốt Ngô Xá Tây.
Di tích Chốt Long Quang là một trong 07 di tích thành phần thuộc di tích “Thành cổ Quảng Trị và những địa điểm lưu niệm sự kiện 81 ngày đêm năm 1972” được Thủ tướng xếp hạng di tích quốc gia đặc biệt theo quyết định số 2383QĐ-TTg ngày 09/12/2013.
Nguyễn Thị Thanh Bình (TTQL Di tích & Bảo tàng Quảng Trị)
BÀI VIẾT MỚI NHẤT
Điểm tên 15 đặc sản Quảng Bình nhất định phải thử
Ngoài những cảnh đẹp ấn tượng, vùng đất đầy nắng và gió Quảng Bình cũng có nền ẩm thực đặc trưng...
Độc đáo những món đồ uống ‘đặc sệt’ chất Quảng Bình
Từ loài cây gai mọc trên đồi cát cằn cỗi cho đến loại quả gắn liền với tuổi thơ của nhiều người,...
Thịt trâu lá trơng Quảng Bình – hương vị lạ lẫm ‘mê hoặc’ thực khách
Thịt trâu lá trơng món ăn quen thuộc ở Quảng Bình và là món ăn ngon đầy bổ dưỡng. Tuy nhiên mỗi...
Kinh nghiệm đi Ozo Park
Khu du lịch sinh thái Ozo Park đang dần trở thành một trong những khu vui chơi giải trí hàng đầu...
Quảng Bình phát hiện thêm 22 hang động mới hoang sơ, đầy kỳ bí
Việc phát hiện 22 hang động mới mang giá trị khoa học về địa mạo, địa chất, là tiềm năng lớn để...
CÓ THỂ BẠN QUAN TÂM
Bình luận bài viết